Một tên trộm lẻn vào nhà tỷ phú nọ khoắng được mớ đồ đạc quý giá xong bèn núp vào chỗ vắng. Ai ngờ đó là phòng nhạc của gia đình. Lúc 8h tối, cô gái lớn bắt đầu luyện giọng, sau đó 2 tiếng cậu con trai kế vào tập violon. 12h, cô con gái thứ tập pianô. 2 giờ, cậu trai út học thổi kèn. 4h10', cả bốn người con chia bè hợp xướng đồng ca... Tên trộm cầm cự đến tận 5h sáng. Cuối cùng, hắn quyết định chui ra đặt những thứ lấy được lên bàn, thều thào nói:
- Các người gọi cảnh sát đi!
2105
Vợ thất thểu bước vào nhà, nói không ra hơi, bảo chồng:
- Anh ơi, khủng khiếp quá, xe của em và một chiếc xe tải đụng nhau, xe em bẹp rúm rồi!
- Thôi, em lành lặn thế này là may lắm rồi. Chắc là gã kia lái ẩu, em có mắng cho nó một trận không?
- Không kịp anh ạ... Hắn chuồn đi đâu không biết, từ trước khi đụng xe cơ....1986
Kỷ niệm 20 năm ngày cưới, vợ nói với chồng:
- Suốt 20 năm chung sống, anh chưa bao giờ mua cho em một cái gì?
Thấy chồng hình như không nghe, người vợ nhắc to lại:
- Chưa bao giờ cả, anh có nghe em nói không hả?
Anh chồng vội lên tiếng:
- Này em yêu, anh đã rất muốn mua đó chứ, nhưng em có bao giờ định bán cho anh cái gì đâu.
1314
Nghệ Thuật Khỏa Thân
:::Mi Guo-xian :::
Mới đến giờ lên đèn mà Thổ Khôi đã rửa xong chân tay mặt mũi. Vợ hắn đang ngồi trước ti vi xem phim. “Tách” - Thổ Khôi tắt cái tivi. Hôm nay hắn vào thành phố làm ăn, gặp may kiếm được khá nhiều tiền, nhưng mệt bã người, bây giờ buồn ngủ lắm rồi, muốn đi nằm sớm. Thúy Hoa chiều ý chồng, lặng lẽ chui vào màn như một con chuột. Đợi khi Thổ Khôi đã lên giường, cô bèn tắt đèn.
“Tắt đèn làm đếch gì!” - Thổ Khôi lầu bầu, lại bật đèn lên, rồi hai tay hắn quờ quạng ôm lấy vợ.
“Cái lão quỷ này, không biết xấu hổ à... Bị ma ám hay sao thế hả?”.
Thổ Khôi chẳng nói chẳng rằng, loáng một cái đã lột hết quần áo lót của vợ. Cưới nhau đã ba năm, làm cái chuyện kia bao nhiêu lần rồi, thế mà hôm nay lần đầu tiên hắn mới nhìn thấy thân thể người đàn bà. Mắt hắn đờ ra, đầu óc như mụ đi. Cặp vú có hai núm nhỏ màu sẫm trông như hai cái sừng dê mới nhú, trông đẹp bằng mấy thứ vú làm bằng cao su bày trong cửa hàng trên phố và mê ly hơn nhiều. Cái lưng thon thon, đôi chân dài dài, làn da trắng trẻo mịn màng như cây cải bắp mới lớn. Mình phải “làm” thôi, Thổ Khôi mút mút đầu lưỡi. Thúy Hoa của mình còn “nghệ thuật” hơn nhiều so với những bức tranh vẽ các cô gái trần truồng hắn vừa nhìn thấy trên thành phố sáng nay.
... “Ai mua vé không, ai mua vé không? Phim Giọt máu trinh nữ, phim Mỹ loại độc đây. Cơ hội hiếm có!”. Lũ phe vé mất dạy, vé giá 5 hào mà chúng bán đắt gấp 10 lần. Thổ Khôi đắn đo mãi mới dám mua một chiếc. Khi vào rạp chiếu bóng, nhân viên soát vé bảo: “Đây là vé xem triển lãm hội họa ở gian bên chứ không phải vé xem phim, bác mắc lừa chúng nó rồi”. Thổ Khôi giận điên người định xé béng chiếc vé ấy, nhưng nghĩ lại, vé đã trót mua rồi, triển lãm lại ở ngay bên cạnh, tội gì chẳng đảo qua một tí, xem thiên hạ vẽ thế nào cũng hay chán.
Vào triển lãm rồi, Thổ Khôi mới cảm thấy kỳ lạ làm sao. Ôi mẹ ơi, trên tường treo bao nhiêu là tranh vẽ đàn bà không mặc tí tẹo quần áo nào mới kinh chứ! Hắn len lét liếc nhìn xung quanh, sau khi không thấy có người quen nào mới thở một hơi dài khoan khoái. Người trong xóm mà biết mình vào đây thì “dư luận” gay lắm!
“Này cậu gì ơi, tranh vẽ người trần truồng thế này mà sao bên công an người ta lại không có ý kiến gì nhỉ? Thằng cha Vương Tiểu Nhị xóm tớ chỉ bán có mấy bộ tú lơ khơ vẽ đàn bà ở truồng thôi mà đã bị công an tóm cổ đưa lên đồn đấy!”.
“Đồng chí ơi, đấy là những thứ văn hóa phẩm khiêu dâm. Còn đây người ta gọi là nghệ thuật. Khác nhau đấy!”.
Đầu óc Thổ Khôi bỗng sáng ra như căn phòng tối được thắp đèn. Trên đường về nhà trọ, hắn mê mẩn người, trong óc hiện lên toàn là hình đàn bà trần truồng các kiểu. Nghĩ mãi, rồi hắn cũng nghĩ tới cô vợ Thúy Hoa của hắn. Vợ mình xinh nhất xóm đấy chứ, mặt xinh này, thân hình cũng gọn gàng này, chỉ có điều suốt ngày mặc bộ quần áo rộng thùng thình, mọi đêm mình có làm cái chuyện kia thì cũng tắt đèn tối như hũ nút, chẳng được ngắm nghía gì, thật phí của. Lần này về nhà quyết phải bắt cô ấy “nghệ thuật nghệ thuật” một tí chứ. Thế là Thổ Khôi tạt vào chợ đêm mua cho vợ một bộ váy loại lụa mỏng tang nhìn thấy cả da thịt.
... Dưới ánh đèn sáng, Thúy Hoa trần như nhộng ra sức giãy giụa. Mọi khi cô ấy vẫn ngoan ngoãn theo hắn kia mà! Lần chống trả này chỉ khiến cho Thổ Khôi càng thêm xúc động hăng tiết. Hắn thở phì phò ráng sức đè vợ xuống... Xong việc, Thổ Khôi cảm thấy hôm nay mình mới được làm người đàn ông thật sự. Hắn ngồi dậy, tợp một ngụm trà rồi định làm tiếp lần nữa. Ai ngờ cô vợ bỗng bật khóc hu hu. Mới đầu Thổ Khôi còn có chút khoái chí vì đắc ý, nhưng rồi hắn lập tức cảm thấy tình hình có chiều hướng nguy hiểm. Người đàn bà càng khóc càng to, càng thương tâm. Cuối cùng, tiếng gào khóc ấy khiến ông bố Thổ Khôi chạy đến đập cửa vào phòng.
Mẹ Thổ Khôi mất từ khi hắn còn ẵm ngửa. Ông bố một mình gà trống nuôi con nên người, cho nên Thổ Khôi rất kính nể, sợ bố một phép. Cái nhà ba người này, Thổ Khôi vâng lời bố, bố hắn nghe lời con dâu, Thúy Hoa là cao nhất, cái trật tự ấy chẳng ai dám đảo lộn.
“Nói cho tao xem nào, có việc gì thế hả? Đang yên ổn không đâu lại bắt nạt con Thúy Hoa, mày có muốn để tao xé xác ra không hả, thằng kia?”.
“Thưa bố, không có chuyện gì đâu ạ”.
“Không có chuyện, lại còn không có chuyện gì hả, đồ vô lương tâm, hu hu!” - thấy được bố chồng bênh, Thúy Hoa khóc càng to. Đang khóc, bỗng nghĩ đến cái túi xách chồng mang về chiều nay, cô bèn chạy đến lục túi. Quả nhiên Thúy Hoa lấy ngay ra được cái váy kia. Bây giờ thì càng rắc rối to rồi! “Bố xem, cái thứ váy này chẳng hiểu anh ấy mua cho con đĩ nào đây... Đổ đốn ra thành phố chơi bời với lũ đàn bà ngoài ấy, về nhà lại định học đòi bắt nạt con... Trời ơi! Hu hu! Con không muốn sống nữa!”.
Thổ Khôi chớp chớp mắt, tròng mắt trắng dã, mồ hôi toát ra như tắm. Bị ông bố truy hỏi mãi, cuối cùng hắn đành ấp úng kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Ông bố giận tái mặt, những đường gân xanh trên trán ông run bần bật. Ông cầm chiếc ống điếu phang một cái vào đầu Thổ Khôi: “Đồ con mất dạy, mất dạy! Tám đời nhà ta thế là bị mày làm tan tành sụp đổ cả rồi, Lại còn nghĩ ra chuyện đi xem đàn bà ở truồng nữa cơ, mày không thấy thằng Nhị Tiểu vừa bị người bên công an tóm cổ lôi đi hả?”.
“Thưa bố, chuyện này khác ạ. Người ta làm chuyện khiêu... khiêu gì gì ấy cơ ạ. Còn con chỉ xem nghệ thuật thôi ạ”.
“Đồ súc sinh, lại còn già mồm hả!”. Cái ống điếu lại phang một cái nữa vào đầu Thổ Khôi, lần này phang mạnh hơn. “Lần sau mà mày còn vào thành phố thì ông chặt chân, nghe chưa!”.
Cũng chẳng hiểu tại sao, hôm sau người trong xóm trông thấy Thổ Khôi ai nấy đều chỉ chỉ trỏ trỏ, ghé tai nhau thì thầm cứ như chỉ sau một đêm mà trên đầu hắn bỗng mọc sừng hay sao ấy. Biết là chuyện lan ra ngoài xóm rồi, cho nên trông thấy ai là Thổ Khôi lẩn ngay. Thế nhưng cũng có lúc chẳng trốn đi đâu được. Mụ Hai, cái mụ gái góa trong xóm ngày thường vẫn bám riết tán tỉnh Thổ Khôi ấy, hôm nay mặt mày hớn hở tươi roi rói hẳn lên. Mụ õng ẹo chặn đường Thổ Khôi: “Thế nào, muốn xem mụ già này cởi truồng hả? Nhà tớ không có ai đâu, vào đây tớ cho xem này”. Thổ Khôi ngượng chín người chỉ muốn độn thổ.
Tối hôm ấy trước khi lên giường, hắn chủ động tắt đèn chứ không để vợ tắt như mọi khi.
Truyện ngắn của Mi Guo-xian (Trung Quốc)
Làng Thị Dạ ít có dịp giải trí nên mỗi khi ghe hát cập bến, dân chúng rất vui mừng. Từ già chí trẻ nhấp nhổm trên bờ sông, chỉ trỏ xuống ghe bình luận, có khi còn kêu vói ơi ới như đón người thân quen đi xa trở về. Bầu Bang buộc ghe vào gốc bồ đề sát mép nước, đi sắm chút lễ mọn xin phép làng xã, thế rồi gánh hát dọn lên đình, che rạp ngoài trời. Trước đêm diễn người nhà bầu Bang kê bàn bán vé. Thôi thì lớp trong lớp ngoài chen chật như nêm, dân chúng hiếu kỳ thì nhiều, người mua thì ít. Dân nghèo, đồng bạc vô túi khó khăn, nên chi dùng cân nhắc lắm. Chỉ những dịp kỳ yên, hương chức kêu tờ, gọi gánh về hát án cúng thần, thì dân làng được coi thí, không phải mất tiền. Bên kêu tờ có quyền đòi diễn tuồng nào, vai chính do kép nào đóng. Theo đúng yêu cầu, bầu gánh rà xem kịch mục trong tờ kêu là tuồng gì, rồi đi mời kép vá ra vai. Kép vá là kép chỉ chuyên một vai “tủ”, kẻ chuyên vai Đổng Kim Lân, người chuyên vai Tạ Ôn Đình. Kép vá diễn siêu đến đâu cũng không ăn nhịp hoàn toàn với các vai khác, tựa như miếng vải mới chằm trên tấm áo cũ, do vậy mới gọi là vá. Gánh Bầu Bang là gánh đầu tiên nuôi hẳn một kép nhứt, đến đâu là neo lại cả tháng ròng, mà sự nhộn nhịp, thổn thức không lúc nào vơi. Kép nhứt của gánh Bầu Bang là Bảy Phượng, từng theo chánh ca Mùi học hát. Đồn rằng phường hát bội có bao kiểu mặt, Bảy Phượng đều dồi trát thành thạo, mặt nào cũng hớp hồn khán giả. Bảy Phượng sắm bi, cái buồn lan đến từng cọng cỏ. Bảy Phượng sắm hùng, thì chết điếng đàn bà con gái. Buổi chợ nào đồn tối ấy có Bảy Phượng diễn, thì cá thịt rau quả nới giá, các bà các cô hối hả về lo bữa chiều để kịp đi coi. Bảy Phượng nhập gánh này từ tháng giêng năm ngoái, ban đầu cũng định hát mướn mươi hôm, không dè mặn duyên với bầu đoàn, thế là theo luôn. Cứ mỗi lần ra đèn, Bảy Phượng vô tình làm rụng biết bao trái tim dân nữ. Trong khi đó trái tim anh không ngừng nhảy nhót bởi đào Nga, con gái Bầu Bang. Đào Nga mập trắng, vú căng bưởi tháng tám, eo thắt lưng ong, mông to tày thúng, bước đi đổ quán xiêu đình, ngó sướng con mắt, chớ không như bọn kép giả gái người thẳng đuỗn, cứng ngắt. Bảy Phượng chưa gặp ai giống vậy bao giờ: lúm đồng tiền bên má phải như xoáy nước mờ ảo khiến gương mặt hơi chênh khi cười nhưng toát ra sức quyến rũ mê hồn, lại thêm mày dài đen nhức, mắt có đuôi. Đêm diễn Nguyệt cô hoá cáo, đừng nói là trong tích tuồng viết sẵn Tiết Giao phải thua Nguyệt Cô trong lúc giao tranh, Bảy Phượng ngàn lần thua khi cái lúm xoáy đồng tiền lạ lùng kia nghiêng qua anh với mấy ngón tay vuốt má ghẹo trai của nữ hồ ly. Đôi mắt dài của Nguyệt Cô đào Nga lẳng lơ vừa quét qua một lượt, Tiết Giao Bảy Phượng mê mẩn tâm thần, tuy miệng sang sảng quát mắng nhưng cú ngã ngựa của anh tướng trẻ bỗng đầy cảm hứng. Đào Nga xán lại cạ chiếc má mịn mát vào má anh, nói nhỏ: “Khuya ra bờ sông nghe”. Tan buổi diễn, Bảy Phượng vội vàng tẩy trang, cắm đầu chạy. Gió sông thổi lên mát rượi. Lâu lắm, chừng như trăng đã mỏi mới thấy đào Nga bợ ngực lúp thúp chạy tới. Nàng nhìn quanh rồi chui ngay vào vườn nhãn, và mau chóng nhìn thấy Bảy Phượng đang chờ. Đào Nga nhoài xuống ôm lấy cổ Bảy Phượng, lấy tay bẻ cằm anh lại sát mặt mình. Con mắt dài như thuyền. Lúm đồng tiền sâu hút. Hai bầu vú không nịt tròn thây lẩy dưới làn áo mỏng. Và trăng tan ra, tan ra... Đào Nga rên nhớ mùi thị chín, nhưng bấy giờ trái mùa không tìm đâu ra quả, Bảy Phượng bèn lội khắp các vườn tìm cây thị, hái đại một nhánh lá thị về tặng đào Nga. Nàng cầm nhánh lá đưa lên mũi, hít hít rồi khen thơm. Bảy Phượng cũng hít nhưng không nghe mùi gì, vò thử một lá ngửi thấy ngai ngái. Đào Nga hỏi thơm không, Bảy Phượng đáp rằng thơm lắm. Chuyện Bảy Phượng với đào Nga mê nhau ai mà không biết. Có điều, Bảy Phượng không phải là người đàn ông đầu tiên của đào Nga. Người đầu tiên đào Nga kết là Hoàn, một học sinh trường thuốc. Anh đẹp một cách thư sinh, cái đẹp sáng láng của người có chữ nghĩa và am hiểu nghệ thuật. Mấy năm trước gánh Bầu Bang dừng lâu ở phố huyện, thường trùng với kỳ nghỉ hè của Hoàn. Đêm đêm Hoàn ngồi hàng đầu xem hát và nán lại bàn luận với Bầu Bang chuyện làng hia mão, rồi lịch thiệp mời cả gánh đi ăn khuya. Trước mọi người, Hoàn tịnh không săn đón riêng cô đào non mười sáu tuổi. Mặc dù Bầu Bang và ông Tư trống chầu đoán anh cảm đào Nga, nhưng sự tế nhị của anh khiến họ vừa nể lại vừa hài lòng. Mỗi lần Hoàn đến nói chuyện với Bầu Bang, ông Tư trống chầu luôn ngồi ở góc chiếu hầu rượu, còn đào Nga thường kiếm một cớ nào đó để ngồi gần ánh đèn, khi thì đính thêm kim tuyến lên cổ một chiếc áo hoàng hậu, khi thì tết dải hoa đỏ trước bộ giáp ngực tướng soái, một là được nghe anh nói, hai là kín đáo khoe vẻ đẹp đặc biệt ăn đèn của mình như lời một ông thợ chụp hình đã khen. Hoàn bàn: “Hát bội toàn diễn tích cũ mà xem hoài không chán”. Bầu Bang bảo: “Người ta coi hát bội là để đo lường mình và đo lường thiên hạ, cái xảo trá gian hùng, cái trung tín nhân nghĩa ở đời có bao giờ cũ?”. Xem vở Cổ thành, anh hỏi: “Thưa bác, vì sao Châu Thương đi bộ hạ?” Bầu Bang đáp: “Cậu không để ý đấy thôi, Châu Thương là cướp núi, vẫy vùng một cõi, nói năng trịch thượng, đi đứng ngang tàng. Đến khi gặp Quan Công, biết trước mặt mình là bậc cái thế anh hùng nức tiếng bấy lâu. Uy dũng vằng vặc của ngài đã khiến Châu Thương bị chinh phục, một hai tự nguyện theo hầu. Đấy là sức hấp dẫn của chính khí. Châu Thương đi bộ hạ, là để tỏ sự tôn kính đối với Ngài. Ngài là tùng bách, mình chỉ là lau cỏ. Ngài là mặt trời, mình chỉ Một bữa, thấy đào Nga lảng vảng, ông Tư trống chầu hỏi: “Sao cậu không nói không rằng gì tới các vai đào?”. Hoàn đỏ mặt, đào Nga cũng đỏ mặt. Bầu Bang lặng lẽ uống rượu. Biết Hoàn sắp về, đào Nga lẻn ra đường, tìm một chỗ khuất đứng chờ. Nhận ra nàng, Hoàn gọi nhỏ: “Cô Nga”. Nàng run bắn, chân khuỵu xuống, Hoàn hốt hoảng đưa tay đỡ. Vừa chạm vào nàng, trong Hoàn bỗng xuất hiện một sức mạnh ma mị, anh vác nàng chạy phăm phăm vào một khoảng vườn um tùm. Có mùi thị chín. Dường như một quả thị vàng vừa rụng xuống. Đến lúc nàng về, hai ông già vẫn còn ngồi uống rượu. Đào Nga len lén đi nằm, chợt nghe cha nói với ông Tư trống chầu: “Người ta con nhà gia thế ... Đời nào!” Rồi không thấy anh học sinh trường thuốc ấy ngồi ở hàng ghế đầu coi hát bội nữa. Rồi có tin Hoàn lấy vợ, ở rể tận Nam kỳ. Sau đó, gánh Bầu Bang rời phố huyện. Qua năm ba lần tan gánh, lập gánh, đào Nga diễn mỗi lúc mỗi lên nước, tha hồ đi ngang về dọc. Bầu Bang biết mà không nỡ la rầy. Trong khi chờ kéo màn diễn vở Sơn hậu, dân nghiện hát bội làng Thị Dạ kể vanh vách bảng phân vai đào kép. Đêm đầu Bảy Phượng sắm vai Đổng Kim Lân, đêm thứ hai Bảy Phượng sắm vai Phàn Diệm. Tướng gộc Tạ Ôn Đình cả hai đêm đều do kép Liêu sắm. Tạ Ôn Đình xuất tượng, lập tức sàn diễn nổi cuồng phong. Vóc vạc ngang ngửa, cờ giáp uy nghi đã đành, mà đến sắc diện cũng chứa đầy bão tố. Cứ nhìn đôi tròng loã ham hố giữa cái mặt màu da cua râu mọc rậm ri, ai nấy hồi hộp như chính mình đụng phải thứ dữ. Của đáng tội, cặp mày vẽ vụng quá! Mày tướng gộc đúng lý là mày xước, muốn vẽ mày xước trán phải cao, đằng nầy trán Liêu thấp chẹt, không đủ chỗ cho ngọn bút hất lên, thành thử gã tô lông mày chè bè, dòm tức rực. Lạ chưa! Bà con ồ lên ngạc nhiên. Cái mặt Tạ Ôn Đình bữa nay oai hơn hôm qua. “Nó kiếm đâu ra cái trán cao mới tài vậy cà?”- ông Tư lẩm bẩm. Ông không biết, nhưng Bảy Phượng biết. Hồi nãy ở sau màn, Đào Nga liệng cho kép Liêu một mảnh vải rộng non gang tay, bảo gã bịt tóc trán, dồi phấn luôn trên nền vải cho liền mặt để trán rộng ra, tha hồ vẽ lông mày. Đào Nga vẽ mặt xong thấy gã vẫn còn lóng cóng thắt mở, bèn giật phắt miếng vải: “Đưa đây bày cho, để ý lần khác còn làm”. Rồi đào Nga ngồi trước mặt Liêu, vuốt ngược tóc gã. Trong khi nàng choàng hai tay ra sau ót Liêu để buộc nút vải, cái cổ áo hớ hênh bày trọn dưới mắt gã vầng ngực căng đầy. Không biết gã làm gì, chỉ nghe đào Nga rủa một tiếng, rồi lại tiếp tục xoa phấn lên trán cho gã, Bảy Phượng muốn lộn gan lên đầu, vùng vằng bỏ đi. Kép Liêu chỉ đợi có vậy, gã đặt hai bàn tay gọng kìm lên cái hông thon thả của đào Nga, mó máy thăm dò. Đào Nga vờ thản nhiên làm mặt cho gã, nhưng người rừng rực như một đống lửa. Nàng dán râu liên tu bó hàm tới mép tai cho gã, rồi lườm gã một cái đầy ý nghĩa. Diễn xong, mọi người chưa kịp tẩy trang, bầu Bang kêu họp gánh. Ông dặng hắng một cái rồi hỏi: “Cái xóc giáp của Ôn Đình tối nay bị lỗi gì, các con có biết không?”. Kép Liêu vòng tay lí nhí: “Nhờ thầy giảng cho”. Bầu Bang bảo: “Ôn Đình là tướng gộc, bị thua một tướng trẻ như Phàn Diệm thì hổ ngươi, nên phải dùng chân hất giáp lên vai để che vết thương. Vì vậy miếng này kêu là Ôn Đình đá giáp. Lấy giáo xóc giáp lộ liễu như kép Liêu tối nay là sai kích thước nhân vật, là trật miếng. Cái trán rộng với đôi mày xước coi bộ uổng công quá!” Đào Nga bụm miệng cười. Bảy Phượng, kép Liêu mỗi người đuổi theo một ý nghĩ. oOo Đợi người khách cuối cùng vào hội trường, ông già bảo vệ đóng cổng. Bà già bán thuốc dòm ông, hỏi: - Ông hổng coi na? Ông nhát gừng: - Ba cái mửng cũ, hay ho gì coi. - Sao nghe nói diễn trích đoạn mà ông? Trích đoạn là hàng lựa, phải ngon mới được lựa chớ ông. Mà tui nghe có mấy ông to to dìa đây. Hổng lẽ diễn mửng cũ ai coi! - Nhiều thứ cũ người mới ta, thì cũng có thứ cũ ta mới người chớ bà. Tiếng trống mở màn đổ dồn. Bà già giật giọng: - Ông nghe coi! Cái trống bữa nay kêu khác mọi bữa phải hông? Ông già bảo vệ nhận ra điều đó còn sớm hơn bà già, nhưng ông không nói chi cho mệt. Bà già cuống quýt bưng tủ thuốc, xin: - Ông cho tui vô trỏng coi mới được. Tui đoán người cầm chầu này phải sắp tụi mình, ông à. Chỉ sắp tụi mình mới biết trống như vậy. Ngạc nhiên, nhưng ông già bảo vệ cũng cho bà già vào. Nhìn theo cái dáng lật đật của bà, ông thấy tội tội. Té ra bà này cũng dân ghiền hát bội, lâu nay mấy khi bả háo hức vậy đâu. Ông bấm ổ khoá, vô ngồi chồm hổm trên hè, lôi gói thuốc rê từ túi ra, thong thả vấn một điếu lớn, rít vài hơi rồi dựng chỏ tay trên đầu gối, suy tư. Khói thuốc bay chìm chìm trong bóng đêm... oOo Đào Nga có mang. Bảy Phượng bảo cái thai là của tôi. Kép Liêu cũng bảo cái thai là của tôi. Bầu Bang quát to như sấm hai kép mới thôi cãi nhau. Hai kép kéo nhau ra bờ sông, lao vào nhau như hai con trâu điên, xéo nát mấy khoảng vườn mà đào Nga từng cho họ nếm mùi thiên đường địa ngục. Đến khi cả hai đều nhừ tử, thì họ cùng cay đắng nhận ra sự giành giật thật vô nghĩa. Chỉ cần đào Nga chọn một trong hai thì dù đau đớn, kép Liêu lẫn Bảy Phượng sẽ hành động một cách thượng mã. Nhưng đào Nga đã không chọn họ. Nàng thẫn thờ ngồi nhìn nhánh lá thị giắt trên vách liếp. Nhánh lá đã héo nhưng chẳng hiểu sao không chịu ngả vàng. Trong buổi trưa hai kép đi đánh nhau, Bầu Bang bắt đào Nga quỳ giữa chiếu, còn ông cột võng giữa hai cây sầu đâu nằm ngó mông xuống bến Thị Dạ. Ông Tư trống chầu rón rén ra ngồi bên cạnh. Từ khi giao hiệu tạp hoá cho bà vợ cai quản, còn mình mang một bọc tiền lớn theo giúp Bầu Bang, ông Tư trống chầu tự nhủ sẽ không bao giờ lấy vai trò mạnh thường quân xen vào việc riêng của chủ gánh để Bầu Bang khỏi khó xử. Ban đầu, tưởng theo Bầu Bang mươi bữa nửa tháng cho vui vậy thôi, ai dè từ chỗ mê coi hát, mê cầm chầu, ông mê luôn ông chủ gánh bụng phệ này. Ông thấy ở Bầu Bang một khí độ hơn người. Ngày qua tháng lại, hai ông già thành một đôi tri âm tri kỷ. Giờ biết Bầu Bang buồn mà không giúp gì được, miệng ông Tư trống chầu đắng ngắt. Bầu Bang đưa võng kẽo kẹt, kẽo kẹt từ trưa tới xế. Ông Tư vịn đầu võng xin: - Cô Nga quỳ dậy là đủ rồi ông chủ à. Bầu Bang thõng chân xuống kìm cái võng lại: - Tôi nhục lắm anh Tư ôi. Nó ưng ai tôi cũng gả, nhưng nó không chịu ưng ai hết! Ông Tư trống chầu nói nhỏ nhỏ: - Cổ nặng lòng với cậu Hoàn. - Nặng cái nỗi gì chớ? Nặng lòng mà đem đời mình đi phá sao? Ông Tư nín bặt. Bầu Bang tiếp tục đưa võng kẽo kẹt tới chiều, rồi thở hắt: - Anh Tư, anh biểu con Nga với sắp nhỏ dọn gánh xuống ghe đi. Ghe Bầu Bang lênh đênh dọc miền Trung, mỗi nơi lưu lại vài ba đêm, đêm nào cũng đông khách. Không biết vô tình hay hữu ý, các nơi kêu tờ cứ đòi diễn Hộ sanh đàn. Người thì bảo đào Nga diễn hay nhất là lớp Kỷ Lan Anh bụng mang dạ chửa, lưng đeo song kiếm, cùng cô hầu người thượng băng ngàn tìm chồng. Người thì bảo, hay nhất là màn Lan Anh đẻ rơi, đẻ xong tay ẵm cháu thơ, tay bế con dại chạy giặc, vừa chạy vừa hát: “Bởi vương mang gánh nghĩa gánh tình, nên lịu địu tay bồng tay ẵm”. Người thì bảo, Bảy Phượng cầm cây độc phủ diễn lớp Tiết Cương chống búa mới đã, nhưng độc chiêu hơn có lẽ là giọng hát buồn đến móc hết ruột gan mình ra để người khác đoạn trường: “Thế sự đoản ư xuân mộng. Nhân tình bạc tợ thu vân. Nghiến răng cười, cười cũng khó khăn. Ôm lòng chịu, chịu càng vui sướng. A ha ha...hả hả...hả hả hả... ứ... hự...mà... hả hả hả...” Bảy Phượng hát cái cách gì, mà kép Liêu thấy mình có lỗi quá. Kép Liêu biết cả mình lẫn Bảy Phượng đều sẵn sàng chết vì đào Nga, nhưng không phân định nổi đào Nga sẽ chết vì ai. Đào Nga nào chịu nói, ánh mắt nàng dành cho cả hai người như van. Các anh thôi đi, thôi đi, mỗi lời bây giờ là muối xát kim châm lòng tôi đó. Thiên hạ đang làm rầm trời kia kìa. Tôi chỉ muốn chết phứt cho rảnh. Mà ai nỡ để nàng chết? Bảy Phượng - không. Kép Liêu - không. Ông Tư trống chầu - không. Bầu Bang lại càng không. Ông không trách cứ Bảy Phượng hay kép Liêu một lời nặng nhẹ. Chính vì vậy mà trừ buổi diễn là có cái rộn ràng, còn cả ngày gánh hát lặng ắng như tờ. Nghe rất rõ tiếng chân đào Nga đi đi lại lại, nghe rất rõ tiếng ruồi vo ve, và nghe rất rõ tiếng thở dài nếu ai đó thở dài. oOo Nhất nhạn hoành phi vân tế lộ Cô đăng trường chiếu nguyệt biên thành Tiếng hát từ hội trường vẳng ra như từ một cõi xa xôi nào. Cái anh Trương Phi nhà Hán vũ dũng bộc tuệch, mà vào hát bội Việt Nam mình sao đa cảm đa sầu làm vậy. Một lần Bảy Phượng giảng cho kép Liêu rằng lời hát khách ấy của Trương Phi muốn hát cho hay phải lấy tâm trạng vô cố nhân mà hát. Lúc bấy giờ Đào Nga đã bỏ gánh trốn đi. Cả gánh nhao nhác tìm nàng mấy ngày trời, Bầu Bang gọi mọi người về : “Thôi để nó đi cho nhẹ lòng nó, sau rồi hẵng hay. Kiếm về nó cũng không yên.” Không còn đào Nga, các vở không nặng về đào như Cổ thành, Sơn hậu liên tục lên sàn. Bảy Phượng nói vô cố nhân, là ám chỉ việc thiếu vắng nàng chăng? Kép Liêu lờ mờ hiểu, nhưng phải sau khi Bảy Phượng bỏ đi biền biệt, kép Liêu mới thấm thế nào là vô cố nhân, thế nào là chiếc nhạn lẻ loi bay ngang những đám mây đuổi nhau mải miết, thế nào là ngọn đèn côi đêm dài thao thức dõi bóng trăng tà bên thành biên ải. Lớp Trương Phi xướng rượu trở thành lớp diễn kép Liêu lấy nước mắt người ta bằng nước mắt của mình. Từ độ rã gánh, bao phen kép Liêu cố ghìm, cố ép luồng hơi trở về tim một cách nghẹn ngào. Đã nghiến răng dứt bỏ nghề hát, đã cam phận làm một người bình thường, ông vẫn không sao dứt nổi mấy câu khách nọ khỏi hồn. Mỗi khi ông ngồi một mình, là nó chạy rùng rùng trong máu, guộn lên trong ngực, dựng thành luồng hơi nóng rực vùng vẫy đòi thoát ra. Không hát thì bứt rứt, mà hát thì hồn vía ngửa nghiêng, sôi réo... Ông già bảo vệ giật mình, rảy vội đóm thuốc sém kẽ tay nóng bỏng. Ai đó vậy? Ai hát câu nhất nhạn cô đăng mà nỗi nhớ nhung run rẩy từng lời, từng nhịp? Ai vừa đem tâm trạng vô cố nhân phân tỏ trước đèn? Còn tiếng trống thướng kia nữa, là của ai? Chẳng lẽ bác Tư trống chầu hiện về sao? Như một mẩu sắt bị hút về cực nam châm, ông thập thững đi vào hội trường, trôi qua các dãy ghế thưa người, chỉ dừng lại khi đã tới sát phía sau người cầm chầu. Hình như có ai đó giật áo ông, bảo ngồi xuống hàng ghế khán giả. Hình như người đó còn đưa cho ông một chai nước lọc và ông có uống thứ nước lạt phèo ấy thì phải, vì cơn sôi réo trong ông dần lắng xuống. Ông giám đốc nhà hát tỉnh vói qua nói với ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống ngồi cách một ghế, rằng người đóng Trương Phi tối nay là nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng. Trời, ông bảo vệ già kêu thầm, té ra cha Trương Phi này chính là Bảy Phượng, mình không lầm mà! Và ông bỗng mờ mịt về cảm giác đang diễn ra trong lòng mình, buồn hay mừng đây? Bởi từ lâu ông đã xếp cái tên kép Liêu vào dĩ vãng. Ngay cả khi số phận dẫn dắt ông về lãnh chân bảo vệ của trung tâm văn hoá huyện này, nơi có cái hội trường trung bình mỗi tháng mươi đêm hát bội của các gánh nghiệp dư, mỗi năm vài ba đêm của đoàn hát bội nhà hát tỉnh, thì tiếng trống thì thùng của chừng ấy cuộc xướng ca vẫn không đánh thức nổi anh chàng kép Liêu trong ông tỉnh giấc ngủ vùi. Bây giờ, coi bộ anh chàng kép Liêu đang dụi mắt lồm cồm ngồi dậy vì câu hát nhất nhạn cô đăng của Bảy Phượng và tiếng trống chầu giống hệt tiếng trống bác Tư xưa, nhưng coi bộ anh chàng trong cái vỏ hom hem này không đủ can đảm giáp mặt nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng để thốt lên hai tiếng “cố nhân”. Sau trích đoạn Trương Phi xướng rượu là lớp Nguyệt Cô hoá cáo do đôi nghệ sĩ trẻ tài năng Tuân Phi - Bạch Dương biểu diễn. Ông già bảo vệ nhìn chéo lên hàng ghế đầu, nơi nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng đã trút vai tuồng, bệ vệ ngồi giữa ông giám đốc nhà hát tỉnh và ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống. Khắp người ông Phượng toả ra ánh sáng của những miền văn minh mà cả đời ông bảo vệ già chưa biết đến. Nhưng kìa, tiếng trống đã nổi lên. Tiếng cắc rụp cắc rụp dồn dập gõ lên cái hồi hộp của Tiết Giao xen với tiếng tùng tùng rộn rã nỗi bồn chồn mê đắm của Nguyệt Cô nhẹ dạ. Khi Tiết Giao phỉnh được Nguyệt Cô dâng ngọc, chiếc dùi của người cầm chầu giáng lên mặt trống một tiếng sấm giận dữ rồi cất qua tang trống, lướt trong điệu thán tức tưởi xót đau. “Kỳ tài!” - ông già bảo vệ buột miệng. Ông Phượng và người cầm chầu cùng lúc ngoái đầu, nhưng ông già bảo vệ đã vội vã đứng lên và lẩn đi rất nhanh trong bóng tối của hội trường. oOo - Tôi vô phép... - Ông Phượng ngập ngừng bắt tay người cầm chầu - Ông anh đây là...? Giám đốc nhà hát tỉnh lịch thiệp giới thiệu: - Dạ, đây là giáo sư tiến sĩ y khoa Phạm Hoàn, một người rất có mắt xanh với tuồng. Người cầm chầu nhã nhặn mỉm cười: - Đúng ra phải nói tôi là người mê hát bội Bình Định. Ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống nói: - Giáo sư Hoàn từ hồi học trường thuốc năm nào cũng về quê ngoại ở phố huyện hàng mấy tháng trường để coi hát. Ông Phượng hồ hởi: - Lúc nghe trống, tôi đã ngờ rằng đây là người học sinh trường thuốc tài hoa mà bác Tư Trống chầu và thầy Bầu Bang hay nhắc. Hữu duyên thiên lý, hân hạnh gặp ông. Ông chủ tịch hội bảo trợ nửa đùa nửa thật: - Tài lắm! Tài lắm! Chẳng những ẵm ngón chầu thiện nghệ của ông Tư Trống mà còn ẵm luôn đào nhứt gánh Bầu Bang nữa đó nghe! Ánh mắt những nữ nghệ sĩ trẻ sóng sánh ngạc nhiên. Ông Hoàn cười nhẹ, còn ông Phượng quay đi giấu một cái chau mày. Ông Hoàn khen nghệ sĩ Bạch Dương: - Cháu diễn giỏi lắm! Cháu học hát ở lò nào? - Dạ không. Cháu biết hát là nhờ mẹ dạy. - Quê cháu ở đâu? - Thưa, ở bến Thị Dạ. Ba chữ bến Thị Dạ làm ông Phượng giật mình. Ông kín đáo nhìn cô gái. Gương mặt trông nghiêng của Bạch Dương tưởng chừng phảng phất những nét đẹp lạ lùng ám ảnh cả đời ông. Mắt dài như thuyền, mày xanh như liễu, và lúm đồng tiền xoáy nước mơ hồ... Ông Hoàn lại hỏi: - Bác trông cháu hao hao một người. Có phải mẹ cháu là ... đào Nga không? Bạch Dương lắc đầu: - Cháu có nghe mẹ nhắc tới, nhưng chưa từng gặp. Giáo sư biết bà ấy à? - Vâng, có biết... Ông Hoàn trả lời, những lời không hẳn là dửng dưng, nhưng ông Phượng chợt thấy lòng đau nhói. Phạm Hoàn mới chính là người đàn ông đã đốt lên trong đào Nga ngọn lửa đam mê. Niềm mong mỏi một ngày kia người đàn ông ấy trở về ngồi ngây trên hàng ghế đầu xem nàng hát luôn ghì siết nàng bằng muôn sợi nhớ thương ràng rịt. Còn ông, Bảy Phượng, mặc dù đã rời gánh hát Bầu Bang như rời một giấc mơ, song con đường nghệ thuật mà ông theo đuổi suốt đời vẫn không thôi chập chờn bóng dáng người ca nữ ấy. Đào Nga vẫy gọi, thách thức ông khi thì bằng cái nhìn hớp hồn và những đường roi tuyệt kỹ, khi thì bằng giọng cười vừa trong vắt vừa đục ngầu của một Nguyệt Cô giữa khát vọng và dục vọng dội về trong tiềm thức. Cả nỗi xúc động kỳ lạ của nàng khi nghe mùi thị chín thoảng đưa trong gió cũng chiếm lĩnh ông, được ông ủ tận đáy lòng như một niềm riêng tư sâu kín. “Thưa ông”, nghe tiếng gọi rè rè, ông Phượng sực tỉnh. Trước mặt ông là một bà già cốc đế. “Có một ông nhờ tui gửi ông cái này”- bà nói và đưa cho ông một miếng giấy gấp tư. Ông mở ra đọc, dưới ánh đèn hiện lên mấy dòng nguệch ngoạc: “Kính gửi nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng, tức Bảy Phượng, Lâu lắm mới lại nghe hát bằng nỗi lòng vô cố nhân. Tiếc là đào Nga không được gặp lại ông. Từ đình Thị Dạ ra hướng bắc chừng trăm thước là mả cô ấy, mả không dựng bia, tui có trồng cây thị làm dấu. Nếu ông ghé về thì thắp cho cô ấy cây nhang”. Ông Phượng chạy theo bà già: - Kép Liêu! Bà làm ơn chỉ...
2706Vào một chiều xuân, trên bến Thị Dạ xuất hiện một chiếc ghe lạ. Từ khi ghe chưa ló dạng, tiếng trống đã dập dồn vang dội triền sông. Đầu ghe cắm một lá cờ hội vuông vức ba màu xanh đỏ vàng, những tua viền ngũ sắc và đôi giải buông hình lưỡi rắn uốn lượn trong gió thật đẹp mắt.
Dưới lá cờ, một ông trạc ngũ tuần đang đứng nghiêm trang. Ông mặc áo bà ba trắng, quần lụa đà, vóc to, vai rộng, đầu đội mũ cói, mặt nghểnh ra trước, hai tay vòng ngang cái bụng hơi phệ. Bên trái ông là một cái trống chiến đang ra sức đổ hồi dưới tay dùi của một bác râu dài chít khăn tiều. Phía sau hai người lô nhô áo hồng quần tía. Đây là gánh Bầu Bang, một gánh hát dạo thường lưu diễn qua các tỉnh. Bầu Bang có một chiếc ghe vừa dùng làm phương tiện di chuyển vừa là “nhà” của gia quyến ông và những đào kép, nhạc công, cùng là các bác trạo phu, mấy anh chạy hiệu.
là đóm lửa góc núi”. Hoàn nói: “Một kiểu đi mà lột tả được tình cảm, thái độ, tư thế. Thật là tuyệt!”. Ông Tư trống chầu khen: “Xem hát như cậu, cũng đã tinh lắm”. Hoàn khiêm tốn từ tạ, nhờ ông Tư trống chầu chỉ cho cách cầm chầu.
Một người sắp đi chơi xa, dặn con: - Hễ có ai tới thì đưa cái giấy này cho họ. Ðứa bé bỏ tờ giấy vào túi áo. Cả ngày không thấy ai đến. Tối, sẵn có ngọn đèn, nó lấy ra xem, chẳng may vô ý để tờ giấy cháy mất. Hôm sau, có người đến hỏi: - Thầy cháu có nhà không? Sực nhớ đến tờ giấy, nó buồn rầu đáp: - Mất rồi! Ông khách giật mình, hỏi: - Mấy bao giờ? - Tối hôm qua. - Sao mà mấy? - Cháy!
Trong buổi tiệc rượu, các quan khách vui đùa chớt nhả. Một ông lột chiếc giầy của cô gái ngồi cạnh rót rượu vào, kề miệng uống ngon lành.
Ở bàn kế bên, một ông lấy làm lạ hỏi bạn:
- Hắn làm thế có nghĩa gì vậy?
Bạn đáp:
- Đó là một lối nịnh đầm đặc biệt.
Ông kia không hiểu, hỏi nữa:
- Nịnh gì mà lạ thế?
- Uống rượu trong giày là chứng tỏ rằng chân người đẹp không thối.
1313
Hùng chạy xồng xộc vào lớp hổn hển:
- Chúng mày biết không: nàng đi tìm tao, rồi nàng ôm chầm lấy tao, nàng sờ lên ngực tao, rồi nàng sờ xuống túi quần... rồi nàng...
- Rồi nàng làm sao hả? - Cả bọn háo hức. - Rồi nàng gắt lên: “Thôi, thôi, anh cho em xin nốt số tiền nợ đi”.
Cả bọn cụt hứng (!?!)
1555
October, 1995 - Vancouver
Tô thêm một lớp son bóng lên môi, Phương Cát nhìn lại mình trong gương, vội vã nói với chồng:
- Xong rồi nè anh, thấy em giỏi chưa?
Đang nằm trên giường xem TV, Hoàng vùng dậy, bước đến bên vợ, vòng tay qua cái eo nhỏ xíu của nàng, kéo nhẹ vào lòng, thì thầm:
- Lúc nào mà vợ anh không giỏi, cho mi một miếng được không?
Xô nhẹ chồng ra, Phương Cát nói nhanh:
- Trể rồi anh ơi, đừng có làm hư tóc em.
Hoàng cù nhầy:
- Hổng cho mi, tui hổng đi.
Phương Cát la làng:
- Còn có năm phút nữa hà, đi không thôi trể, tối về rồi mi.
Đưa mắt nhìn đồng hồ, Hoàng mè nheo:
- Còn những mười phút nữa lận mà cưng, cho mi miếng đi mà.
Chìa má ra cho chồng, Phương Cát cười lớn:
- Bố ỷ không có trẻ con rồi làm tới hả?
Hôn vợ xong, Hoàng cười chiến thắng:
- Lâu lâu không có trẻ con, cũng vui chứ hả em. Mình xuống dưới Lobby được rồi, cũng gần 6 giờ.
Đứng sát vào chồng hơn trong thang máy, Phương Cát hỏi:
- Anh nói đúng 6 giờ người ta đón mình hả. Ủa sao mình không lái xe đến tiệm ăn, mà nhờ người ta đón đưa chi cho phiền họ hả anh?
- Không phiền đâu em, Anh Danny là chủ của công ty này mà.
- Chủ thì chủ chớ, phiền người ta cũng kỳ.
Hoàng nắm tay vợ, phân bua:
- Tại anh ngại ăn xong trời tối, mình không quen đường, lái về nguy hiểm. Ổng volunteer mà.
Phương Cát thắc mắc:
- Có ai đem vợ đi ăn tối nay không anh? Em ngại quá!
- Hình như có 2 người nữa cũng đem vợ theo, chứ không phải mình anh đâu.
- Nếu vậy thì đỡ quá, chứ một mình em thì “wê” lắm đó à nha.
Hoàng trấn an vợ:
- Không sao đâu mà, cả hơn ba mươi người cùng đi ăn tối nay chứ có ít đâu.
Phương Cát lắc lắc cái đầu:
- OK anh, cùng lắm thì em chịu quê vậy, đằng nào cũng đã nhận lời mời rồi, không đổi ý được nữa.
Bước ra khỏi thang máy, Phương Cát thấy một nhóm người đang đứng ngồi nói chuyện ồn ào trong phòng tiếp tân của khách sạn Hyatt. Hoàng nắm tay vợ, đi về phía đám đông, lên tiếng:
- Chúng tôi có trể giờ không các bạn?
- Không đâu, còn nhiều người chưa xuống tới.
Hoàng quay sang bắt tay người vừa nói, rồi giới thiệu:
- Đây là vợ tôi, Laura, và đây là anh Danny Lee.
Đáp lại cái bắt tay của Danny, Phương Cát nhìn vào gương mặt người vừa được chồng giới thiệu. Gương mặt trông thật quen, bộ râu quai nón làm Danny nhuốm nét phong trần. Cặp mắt sâu với hàng mi dài, chớp nhẹ, anh nói:
- Thật là hân hạnh được gặp chị, thưa chị Hoàng.
- Dạ tôi cũng vậy, rất hân hạnh được gặp anh.
- Anh Hoàng nói hôm nay chị đi chơi một mình trong lúc chúng tôi làm việc?
- Vâng, tôi mua một vé xe Bus đi nguyên ngày, nên đã thăm khắp hết thành phố của anh rồi.
Danny lắc đầu, cười:
- Ô, không phải thành phố của tôi đâu, tôi cũng chỉ mới dọn đến đây vài năm thôi. Mà chị có thích thành phố này không?
- Dạ, thích lắm ạ.
- Đây là lần đầu tiên chị đến Vancouver hả?
- Dạ không, tôi đã đến đây vài lần rồi, và vì rất thích thành phố này, nên lại theo anh Hoàng đi chơi nữa.
- Chị thích cái gì nhất ở đây?
- Dạ thích nhiều thứ quá, chưa biết cái nào nhất cả. Anh thì thích cái gì ở đây nhất ạ?
Danny cười lớn:
- Tôi thích khu chợ Tàu ở đây nhất.
Phương Cát nhíu mắt một chút, rồi đáp:
- Vâng, khu chợ Tàu của Vancouver thật là lớn, có rất nhiều loại trái cây Việt Nam mà bên Houston chúng tôi không có anh ạ.
Mỉm cười tinh nghịch, Phương Cát tiếp:
- Chẳng lẽ anh cũng thích trái cây sao?
- Không chị ạ, tôi sống qua ngày nhờ chợ Tàu.
- Anh nói gì, tôi không hiểu.
Xoa hai bàn tay vào nhau, Danny giải thích:
- Tôi ra chợ Tàu ăn cơm rất thường chị ạ.
Phương Cát ngạc nhiên hỏi:
- Anh không ăn cơm nhà?
- Tôi lười nấu lắm chị, một mình nên cũng ngại.
Hoàng chen vào:
- Ủa anh không có gia đình?
- Dạ chưa, anh.
Hoàng đùa:
- Anh Danny kén dữ ha.
Giọng Danny buồn buồn:
- Kén chọn gì đâu anh, tại mình yêu người ta, mà người ta không yêu mình, đi yêu người khác.
Phương Cát tránh tia nhìn của Danny khi nghe chàng nói câu này. Chẳng lẽ lại có sự trùng hợp lạ lùng như vậy sao.
Một toán người khác từ thang máy bước ra đã cứu Phương Cát khỏi đôi mắt dò hỏi của Danny. Nàng thầm cám ơn họ và lẫn vào đám đông để không phải đối diện với Danny.
*
Mới đầu tháng Mười mà Vancouver đã chớm lạnh. Tiệm ăn nằm trong khuôn viên của công viên Stanley thật dễ thương và thơ mộng. Cơn gió cuối Thu se sắt lạnh làm Phương Cát rùng mình, khi vừa bước ra khỏi xe. Hoàng lo lắng hỏi vợ:
- Em lạnh lắm không, lúc nãy đi vội, quên cầm theo cái áo cho em rồi.
Phương Cát tự trách mình:
- Em thiệt là vô ý, đã để ra sẵn mà lại quên mang theo.
Danny khóa xe xong, thấy Phương Cát hơi co ro vì lạnh, đề nghị:
- Để tôi cho chị mượn cái áo khoác của tôi.
Vừa nói, Danny vừa nhanh nhẹn cởi chiếc áo khoát của mình, Phương Cát ngập ngừng:
- Dạ thôi, không sao đâu, tôi chịu được mà.
Hoàng cười lớn:
- Em cứ mượn đỡ áo của ảnh đi, ảnh là dân ở đây, chắc quen với cái lạnh rồi.
Danny khoác chiếc áo của mình lên vai Phương Cát, ân cần hỏi:
- Có đỡ lạnh tí nào không?
- Dạ ấm rồi.
Kéo ghế mời Phương Cát xong, Danny ngồi xuống chiếc ghế đối diện với nàng, Hoàng ngồi bên cạnh vợ. Phương Cát lúng túng tránh nhìn thẳng vào Danny.
Sau khi kêu thức ăn cho mình, Danny nhìn Phương Cát, hỏi:
- Sao chị không order thức ăn vậy?
Phương Cát cúi đầu ngượng ngùng không nói, Hoàng chen vào:
- Cô ấy ghé chợ Tàu mua trái cây và ăn một bụng no nê rồi.
Danny lại hỏi:
- Sáng nay chị đi đâu?
- Dạ thì đi vòng vòng thôi.
Hoàng lại chen vào:
- Laura kể là sáng nay chạy bộ một vòng ngoài công viên này rồi đó. À hồi nãy em hỏi anh cái gì về những người dân ở đây vậy, anh quên rồi.
- Không có gì quan trọng đâu ạ.
Danny không bỏ qua cơ hội:
- Laura có gì thắc mắc thì cứ hỏi, nếu biết, tôi sẽ trả lời, mà không biết, cũng sẽ trả lời luôn.
Phương Cát phì cười dù trong lòng đang bối rối. Danny vẫn còn tính đùa vui như xưa. Với cái tên Mỹ và cách trang điểm mới, nàng không biết Danny có nhận ra mình không. Nhưng với nàng, dù đã hai mươi năm qua, Danny hay Đằng thì nàng cũng nhận ra thôi.
Tháng Năm, 1970 - Huế
Đằng cúi thấp hơn trên cái ghi đông của chiếc xe đạp, hai chân cố đạp thật chậm mà mắt vẫn liếc nhìn bên kia đường coi có bóng “nàng” thấp thoáng không. Con số 17 in đậm trên bức tường, bên cạnh cái cổng sắt đóng kín, làm chàng thất vọng. Lúc nãy, khi đạp xe từ dưới ga lên, chàng đã làm như không để ý đến căn nhà màu vàng đồ sộ ngay dưới chân cầu Bạch Hổ, nhưng thật ra chàng đã để hết tâm trí mỗi lần đạp xe ngang đây.
Đường Huyền Trân Công Chúa dường như ngày mỗi ngắn lại, có bữa Đằng đạp xe tới quá “nhà Ông Tây” thì đạp lui, cũng có bữa, chàng đạp quá trường tiểu học Dương Xuân Thượng mới quay trở lại. Lòng nôn nao được nhìn thấy “nàng” làm Đằng không biết mệt.
Từ dưới Đập Đá, mỗi ngày Đằng đạp xe lên đây ít nhất một lần để hy vọng thấy được “nàng.” Có lẽ “nàng” không biết, vì nhiều khi Đằng bắt gặp “nàng” hồn nhiên leo lên cây Trứng Cá trước nhà, thong thả hái từng trái chín, cho vào miệng nhai ngon lành, mái tóc dài màu nâu đậm bay bay trong gió làm Đằng ngây ngất. Lại có lúc nàng ngồi trước hiên nhà với cuốn sách đọc dở và con chó Berger to lớn nằm bên cạnh.
Hôm nào thấy được nàng, Đằng hớn hở, đạp xe về lại với lòng rộn ràng, hân hoan. Hôm nào không thấy được, Đằng buồn rầu vô cớ, lòng mang một nỗi thất vọng, ê chề ...
Trời đầu tháng Sáu, Huế nóng khô, cơn gió nóng từ Lào thổi về cháy rang da mặt, dân Huế gọi những ngọn gió này là “gió Lào.” Mùa Hè chỉ mới bắt đầu mà Đằng tưởng như ngày khai trường sắp đến. Sau khi có kết quả của kỳ thi Tú Tài I, bạn bè rủ nhau đi chơi nhưng Đằng không đi, mỗi ngày đạp xe qua Cầu Lòn vài lần với hy vọng được thấy “nàng” nhưng cả tuần nay, cánh cổng sắt vẫn đóng kín.
- Ơ! Ơ! Cái anh ni, răng đi xe mà dòm chổ mô, đụng tui nì.
Giật mình khi nghe có tiếng la bên tai, Đằng thắng xe nhanh lại, luống cuống nhảy xuống:
- Xin lỗi O, cháu không thấy.
- Răng ngày mô tui cũng thấy anh đạp xe đi ngang đây, mà đi như người mất hồn rứa?
- Dạ, dạ ...
Người đàn bà đứng tuổi nhìn thẳng vào mặt Đằng, rồi hỏi:
- Anh ở mô, chơ đi tới đây làm chi?
Đằng bối rối, chưa tìm ra câu trả lời, người đàn bà lại lên tiếng:
- Anh quen với nhà ông Đại Úy Ân hay răng?
- Dạ không ...
- Rứa răng cứ đạp xe mà dòm miết vô nhà người ta rứa, mà nì ...
Người đàn bà ngừng một lát, nhìn Đằng đang lúng túng, rồi lại tiếp:
- Mà cả nhà ổng dọn đi gần 2 tuần ni rồi, anh không biết răng?
- Ủa, dọn đi mô rứa O?
- Tui nghe như là họ dọn đi Đà Nẵng
- Cả nhà đi hết hả O?
- Chơ chi nữa, nhà đang bỏ trống trơn ...
Đằng quay người, nhìn thẳng vào căn nhà, cửa vẫn đóng, cây trứng cá như héo hơn mọi ngày. Vậy mà mấy hôm nay chàng vẫn ngại bị bắt gặp nhìn lén nên cứ cúi mặt mỗi khi đạp xe ngang đây.
Cám ơn người đàn bà xong, chàng leo lên xe, nặng nhọc đạp về.
Tháng Năm, 1974 – Đà Nẵng
Phương Cát chầm chậm kéo những gàu nước dưới giếng lên, đổ vào thau, mắt nhìn ra đường, trước khi ngồi xuống rửa tiếp rổ rau mới hái trong vườn. Thấy vài người quen đi làm về, nàng gật đầu chào. Buổi chiều, con đường Thanh Long nhiều xe hơn trong ngày. Những đám bụi bay mờ cả lối, khi một chiếc xe jeep chạy ngang, đường đất còn mới nên nhiều bụi. Hôm nào mưa thì lại càng khổ hơn vì những ổ gà chứa nước lại văng tung tóe khi những chiếc xe này cán lên.
Hôm qua, bị đòn vì bức thư tình của anh Đằng. Cái anh này đến lạ, không dưng theo người ta, viết thư tán tỉnh. Vậy mà anh Hai quất ba roi đau điếng. “Em không có gì với nó, sao nó lại viết thư tình cho em.” Oan ơi là oan mà không giải thích được...
Ba tuần trước, tình cờ gặp anh Đằng ở nhà Thanh, trong dịp tập văn nghệ cho buổi phát thưởng cuối năm của lớp. Thanh giới thiệu Đằng là anh họ từ Huế vào chơi. Nghe anh Đằng nói chuyện với nhỏ Thanh thật vui. Anh hay nói đùa và nhìn Phương Cát, rồi mỉm cười. Khi bắt gặp anh nhìn, cô vụng về lúng túng quay đi nơi khác, lòng xôn xao. Tập xong màn vũ, anh Đằng bao cả bọn đi uống chanh muối, rồi kéo về lại nhà Thanh hát hò. Nhìn Đằng ôm guitar hát, lòng Phương Cát như reo vui.
Sau hôm đó, chiều nào Phương Cát cũng thấy Đằng đạp xe ngang nhà. Anh chỉ nhìn Phương Cát, mỉm cười, rồi đi. Có những đêm thao thức mất ngủ khi nhớ lại ánh mắt của anh nhưng cô không ngờ hôm qua anh Hai nhận được thư Đằng gởi. Không hỏi một câu, anh Hai bắt nằm xuống, quất ba roi. Mẹ chỉ nói: “Sao không hỏi cho ra ngọn ngành, đã nhè em mà đánh ...” Ba thì nói vào: “Đánh là phải rồi, mới có mười bốn, mười lăm tuổi đã có thư tình ...”
Phải chi mình có tình ý gì cũng đỡ tức, Phương Cát vừa rửa rau, vừa suy nghĩ. Nhất định phải tìm cho được lá thư để biết thư nói gì.
Bức thư có vài câu đọc nghe chẳng ra làm sao cả: “Đứng trên Đèo Hải Vân nhìn Biển Thanh Bình qua những chiếc tàu Mỹ ...” nhưng càng đọc Phương Cát càng ngạc nhiên vì không ngờ anh Đằng đã “theo” mình từ lúc còn ở Huế. Từ lúc mình mới mười một, mười hai tuổi. Thư kể đến nỗi thất vọng khi biết gia đình Phương Cát đã dọn vào Đà Nẵng. Rồi phải dọ dẫm tìm kiếm để cuối cùng biết được Phương Cát học cùng lớp với cô em họ của Đằng.
Thư còn nói đến nỗi mừng vui khi gặp lại nàng và những xúc động khi được cùng nàng đi uống chanh muối, dù có rất đông người cùng đi. Rồi lúc ôm đàn hát, anh nói, mặc dù rất đông người, anh vần chỉ nghĩ là anh hát cho riêng cô mà thôi.
Nếu mình chỉ bị ba roi mà đau như vậy thì có lẽ trong 4 năm trời anh Đằng tìm kiếm còn đau hơn biết chừng nào. Phương Cát mỉm cười, đưa tay xoa nhẹ lên chỗ bị đòn hôm qua, rồi đọc tiếp bức thư... Nỗi tức giận vì ba roi hôm qua tan hết.
Trả bức thư lại chỗ cũ, Phương Cát lui ra khỏi phòng học, cô vào phòng Ba Mẹ. Nhìn tới nhìn lui mình trong gương đứng của chiếc tủ đựng áo quần, cô chợt thấy một niềm vui khôn xiết. Chà, mình cũng xinh đó chớ giỡn sao, không xinh mà anh Đằng đã để ý từ lâu nay à.
*
Vancouver ...
Tiếng Danny bên tai, mang Phương Cát trở về hiện tại.
- Anh chị qua Mỹ lâu chưa?
- Từ năm 75 đó anh.
- Ngày xưa anh chị ở Sàigòn?
- Dạ, tôi ở Sàigòn. Còn anh thì sao?
- Tôi đang dạy học ở Quảng Trị lúc đó, bị kẹt luôn lại. Đến năm 1980 mới vượt biển và được Canada nhận vào ...
Phương Cát ngồi nghe chồng và Danny nói chuyện, chen vào hỏi:
- Anh là Danny Lee?
- Dạ, Lê Khắc đó chị,
Phương Cát mở lớn mắt nhìn Danny. Không biết anh đã nhận ra mình chưa. Hai mươi năm rồi, chắc chắn nàng đã thay đổi nhiều.
Nàng hồi tưởng lại những ngày giữa tháng tư năm 75, đã cùng gia đình chạy vào Nha Trang, rồi tin Sàigòn mất, cả nhà theo chú nàng xuống tàu ra khơi ...
Những ngày trong trại tỵ nạn, nàng đã bỏ công tìm kiếm tên Lê Khắc Đằng trong những danh sách thật dài của Red Cross. Những lúc sắp hàng chờ cơm, nàng đã ngẩn người khi thấy một dáng dấp quen thuộc. Những buổi tối tụ tập hát hò trong trại làm nàng nhớ đến ánh mắt năm nào, đã ôm đàn hát những bản tình ca Trịnh Công Sơn... thật tình tứ ...
Xe đến trước cửa khách sạn đúng lúc bản nhạc Tình Nhớ trong chiếc CD cũng vừa chấm dứt.
“Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy.
Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây.
Những bước chân mềm mại, đã đi vào đời người.
Như từng viên đá cội, rớt vào lòng biển khơi ...
Xuống xe, đưa trả lại chiếc áo cho Danny, Phương Cát nhìn anh, nói nhẹ:
- Cám ơn anh Đằng nhiều, nhờ có áo của anh chứ không thì Phương Cát chết rét.
Danny sững sờ nhìn nàng, rồi ngỡ ngàng nói nhỏ:
- Anh cũng ngờ ngợ là Cát, không dè lại là Cát thật.
Lau nhanh hai hàng nước mắt ấm đang rơi trên má, Phương Cát đưa tay ra, nói chậm:
- Anh ở lại bình an.
Cầm tay Phương Cát, Đằng nghẹn ngào:
- Chúc Phương Cát ngày mai về lại Houston yên bình ./.
Trong cuộc thi vấn đáp về môn Sử, giám khảo gặp một thí sinh không trả lời được bất cứ câu hỏi nào. Ðể cứu thí sinh khỏi bị điểm không. Cuối cùng ông hỏi một câu rất dễ cốt để anh ta vớt vát:
- Ai lãnh đạo quân và dân ta đánh thắng quân xâm lược nhà Minh?
Thí sinh cũng vẫn câm như hến.
Bực quá, ông buột miệng như quát:
- Lê lợi!
Cậu thí sinh vội vã bước ra khỏi phòng thi.
Giám khảo càng bực, gọi giật lại:
- Tại sao tôi chưa cho phép, anh tự ý bỏ đi?
Thí sinh ngạc nhiên đáp:
- Thưa thầy, em tưởng thầy hỏi em xong rồi và mới gọi bạn nào tên Lợi lên tra vấn ạ!
Em tìm đến mặt trời,
Khi hiểu là mặt trời có thật
Trước vầng dương chói lòa đôi mắt
Em mù lòa ....
Giọt nước mắt nhạt nhòa
Không tạo được âm thanh
Em mù lòạ...
Giọt nước mắt nhạt nhòa
Không tạo được âm thanh cho lời yêu thành tiếng
Em bất lực nhìn mặt trời tan biến
Đêm nhập nhằng ....
Mặt trời đó ! thật gần.
Đã rọi xuống đời em tia mong manh hạnh phúc...
Ôi, cuộc sống quay theo đinh luật
Ngày .... và đêm ....
Em thấy nỗi đau không tên
Nơi anh, nơi em khi ta bên nhau thở dài mệt mỏi
Em không muốn anh những đêm dài chờ đợi
Một chút gì vẫn quá mong manh ...
Thương gởi đến mặt trời lời yêu không âm thanh
Cho lần sau cuốị...
Cho lần duy nhất
1508
Heo đang nằm suy tư. Không nói ngụy đâu, nó đang nằm suy tư một cách nghiêm chỉnh thiệt. Nó thuộc giống Heo Bò, chân cẳng cao, vóc dáng vạm vỡ, chắc nịch. Màu da màu lông hung hung đỏ. Ăn to, tốc độ lớn trung bình nên khoẻ mạnh cân đối. Không như heo Ðại Bạch mau ú hóa ra mập bệu, nhiều mỡ, yếu xìu. Lại cũng không như Heo Cỏ, lớn chậm rì, nuôi hoài mà không nhích hơn con chuột cống. Lớn quá mau hay quá chậm cũng đều bất bình thường, trí óc ngu tối là lẽ đương nhiên. Còn như Heo Bò giữ đạo Trung Dung thì bắt buộc phải thông minh, đó cũng là lẽ đương nhiên.
Heo bò suy nghĩ mông lung về số kiếp của mình. Sao mà sung sướng quá thế này? Cả ngày chỉ ăn rồi nằm, nằm ngủ chán thì mở mắt ra mà nằm thức. Nằm hoài ê ẩm xương cốt thì đứng dậy. Chỉ có ba thế đứng cần thiết, để ăn, để tiểu tiện, để đại tiện. Còn ngoài ra toàn những thế đứng vô ích: đứng nhìn vẩn vơ ra ngoài đường, nhìn lơ đãng những bộ phận của cái chuồng, nhìn con Heo Sia và con Heo Úc nằm chung chuồng. Phải tìm mọi cách để tiêu khiển cho hết thì giờ. Cạp vào trụ rào chơi. Hất cho ngã lăn cái máng chơi. Ũi mỏ vào hai con heo, phá giấc ngủ của chúng chơi. Giành ăn với chúng chơi... Phải tìm cách hành hạ hai con heo này. Chúng nó biết khổ biết sướng thì mình hành hạ mới thích. Chớ trụ rào cắn cũng như không. Hạch xách về lai lịch của lũ nó:
- Nè, mày quê ở đâu?
- Dạ thưa anh Hai, quê em ở dưới Cửa Bé.
- Ai đem mày lên đây?
- Dạ bà chủ Nái đem em lên chợ Ðầm bán. Bà chủ này mua.
- Còn mày?
- Dạ em ở Diên Phước.
Heo Bò nạt to " Bậy!" khiến hai heo kia giật mình.
- Bậy! Mày mà ở Diên Phước? Tao đây mới ở Diên Phước.
- Dạ mẹ em nói bả đẻ em ở tại làng Thanh Minh mà. Thuộc xã Diên Phước thiệt mà.
- Thanh Minh thuộc Diên An. - Heo Bò dõng dạc phán.
- Dạ, kính thưa anh Hai, dạ... Diên An cũng được.
Cứ nhìn ra đường là thấy mình sung sướng, nhàn nhã. Ông xích lô cong lưng đạp, trên xe có người ngồi. Ông ba gác nhoài người đẩy cái xe chất đầy hàng chông chênh. Thỉnh thoảng có con bò lịch kịch kéo cái xe cao lênh khênh trong xếp đầy gạch, đá. Buổi sáng có những bà đi chậm chạp bưng thúng miệng rao " Ai ăn xôi" .
Buổi trưa có những chị gánh rao đậu hũ. Buổi tối có những bóng đen rung chuông khiêng rác. Những sự đạp, đẩy, kéo, bưng, gánh... mình được miễn hết. Mình chỉ có nằm.
Nhìn vô trong nhà lại cũng thấy mình sung sướng nhàn nhã. Bà chủ cong lưng đạp máy may từ mờ sáng. Tám giờ hối hả dắt xe đạp đi chợ. Mười giờ về lật đật vô bếp. Trưa ăn xong, ngồi lại máy may. May cho tới chiều. Ăn tối xong lại may dưới ánh đèn.
- Này Sia, mày có thấy bà chủ khổ không?
- Dạ thưa anh Hai, dạ có.
- Khổ thế nào?
- Dạ, mỗi khi bà chủ đi đâu về, thấy nhà cửa bề bộn, bả la hét ầm ĩ rồi chạy đi kiếm cái chổi đánh bịch bịch vô đít thằng con. Rồi bả nằm thở phèo phèo.
Heo Bò bật cười. Ðúng là đồ ngu. Ðược đánh mà la khổ!.
- Còn mày? - Heo bò nhìn qua con Heo Úc.
- Em thì thấy bả sướng
Heo Bò và Heo Sia cùng ngạc nhiên.
- Em thấy bả ngồi đạp cái máy, nó chạy rì rì cả ngày, nghe êm tai.
Thật là ngu tột đỉnh. Nhưng cãi làm gì cho... mệt? Nằm nghĩ ngợi mông lung nó khoẻ hơn. Nói rằng thân heo sướng hơn Vua thì có sai không? Bởi ông Vua còn phải lo việc nước. Ðằng này bà chủ oai quyền dường đó mà mỗi khi trời mưa, bả sợ dột ướt heo lạnh, bả chạy táo tác lội mưa kiếm ván kiếm tôn kiếm chiếu mà che cho mình. Cả ông chồng và lũ con cũng đều lội mưa và bị bà quát nạt tới tấp nếu họ làm chậm. Bữa ăn của mình được chăm sóc kỹ hơn bữa ăn của một số người. Phải có cám tổng hợp, có bột mì, có rau muống, có đầu cá, ruột cá đặt mua dưới chợ đem về nấu chín trộn vô. Có thêm cơm cho ngon miệng. Gần đây không biết do ai bày còn có thêm hèm rượu gạo. Trời ơi, bữa đầu lạ miệng, chua chua nồng nồng, giành nhau mà xộc, xộc đầy bụng say mèm nằm lăn cù ra ngáy.
- Này Sia, mày có nghĩ rằng bà chủ cưng mình hơn ông chủ không?
- Dạ thưa anh Hai, cưng hơn.
- Sao?
- Tháng trước anh Hai ham ăn cùi của trái khóm, bị tiêu chảy. Bà chủ sai ông chủ lên nhà ông Thú y Thạnh mua thuốc. Ði về tay không, nói ông Thạnh vắng. Bà sẵn cái mùng đang máy chưa kịp tra nóc, chụp luôn lên đầu ổng.
- Có cưng hơn con gái của bả không? Ðể cho thằng Úc nói.
- Dạ, kính thưa anh Hai: cũng cưng hơn. Hôm thứ Năm, con gái bả mê đánh chuyền với bạn Huyền, con ông Du, quên tắm heo. Bả đi chơi về hỏi. Trả lời ú ớ, bả phết cho một thanh củi.
Heo Bò cười khè khè. Nghĩ cũng lạ. Hồi mình còn ở Diên Phước, nhàn thì có nhàn, nhưng sướng thì chưa sướng. Ở thôn quê mà nuôi heo thì chủ yếu là kiếm chuối cây xắt mỏng, độn thêm rau lang, trộn thêm cám. Nuôi heo như bỏ ống, bỏ tiền bùng binh, nhưng mà nghèo thì tiền đâu mà bỏ ống? Bất ngờ có một bữa người ta rượt bắt mình bỏ vô rọ. Sợ quá. Họ làm gì mình đây? Lùa bắt cái kiểu tàn bạo như vậy thì nhất định không phải để đem mình đi phong vương. Nào ngờ mình làm vua thiệt nơi cái góc sân này. Một hôm nghe bên nhà ông ngoại Xu lũ nhỏ học bài gì nói có ông Vua Ngọa Triều. Mình tức cười. Nằm cười một mình. Mình là ngọa triều đó, chớ ai.
Tiết tháng Mười, cái lạnh của nước mưa qua đi, được thay thế bởi cái lạnh của gió bấc. Gió thổi vun vút lùa qua những khe hở, mọi lỗ hở để phải nhét giẻ vào. Hai đứa con lục tung khắp xó xỉnh tìm những quần áo cũ để xé giẻ. Xé miếng nhỏ quá bị la đã đành, xé quá to bà nhét vô không lọt cũng bị hét. Khi nhét xong vô nhà, mồ hôi nhỏ giọt, nhìn đống quần áo bừa bãi mà hai đứa nhỏ cứ bỏ đó bình tĩnh ngồi học bài, bà lại la ó. Heo Bò lại cười thầm, lại có dịp thưởng thức giá trị của mình. Quả mình sướng hơn vua.
Một hôm nhìn con chó Ca-rô đi lưỡn thưỡn cạnh chuồng, miệng ngáp dài nhe hai hàm răng trắng nhỡn. Heo Bò hỏi Sia:
- Mày nghĩ sao về con Ca-rô?
Câu hỏi cao quá trí thông minh tiêu chuẩn của Heo khiến Sia nghếch mặt lên. Hàng lông mi lợt lạt, tiệp màu với lông mặt khiến đôi mắt lờ lờ, trông xấu xí vô duyên lạ. Heo Bò:
- Ý tao muốn hỏi mày khen chê thương ghét thế nào.
- Dạ, thưa anh Hai, muốn thương mà thương không vô. Có mấy lần nó dám chõ mỏ sủa anh Hai.
Heo Bò gật gù:
- Lúc đầu nghe nó sủa, tao sợ vừa chạy vừa hộc. Thấy bà chủ vác gậy rượt theo đập, tao không hiểu vì sao. Ðôi ba lần mới rõ: bả sợ tao chạy sút cân. Nghĩ lại mình ngu. Nhưng tao liền khôn ra. Trả thù. Mỗi lần nó lại gần, dù nó không sủa, tao cũng hộc. Vậy là nó bị đánh oan, tơi bời.
Cả ba khoái trá cười. Lát sau Úc rụt rè:
- Dạ thưa anh Hai, nghĩ thân nó cũng tội. Cả đêm ít ngủ. Tối phải lo canh heo. Chuồng che trước sân, sát đường
cái, sợ ăn trộm. Nghe miệng thiên hạ thì heo chưa mất, đã mất ngủ. Bà này nói:
- Nó nhảy qua hàng rào này như chơi. Thò miệng cái bao gai ra, chụp vào đầu con heo. Vác đi gọn.
Lão kia thêm:
- Bao gai chứa sẵn một mớ mạt cưa. Chụp vô đầu, con heo sặc tá hỏa. Hết la.
Chị khác trề môi:
- Mạt cưa chưa thấm. Tro bếp chắc ăn hơn.
Bà chủ chống cự một cách yếu ớt:
- Có con Ca-rô, em bắt tối tối nằm cạnh bên chuồng heo.
Nhiều tiếng cùng " Ồ" lên một lượt, giành nhau:
- Trời hỡi! Còn tin ở chó! " Nó" đi ngoài đường, ném vô một miếng thịt nướng có tẩm thuốc chuột. Chó nhảy lại đớp. Xong! Trời ơi, thời này mà còn tin ở chó.
Bà chủ liền nghĩ ra một hệ thống báo động. Mắc dây chằng chịt và mắc một hệ thống lon, nhỏ như lon sữa, lớn như lon mỡ. Cả thau nhôm và thùng thiếc. Có bữa đang loay hoay gài, móc, treo, cột... một cái thùng bỗng rớt xuống đánh " rầm" . Chính bà giật mình, lật đật hai tay vuốt ngực. Nhưng ông chồng đuểnh đoảng của bà mới là nạn nhân đáng thương. Một tối vui bạn nhậu nhẹt , lén mở cổng chập choạng sao đó, chợt hệ thống lon, thùng rơi ầm ầm, loảng xoảng. Phần chó sủa, phần heo hộc. Bà chủ giật mình thức giấc hoảng kinh la hoán " Ăn trộm! Ăn trộm!" Bật đèn mở cửa, gậy gộc trên tay. Nhìn ra thấy ông chủ mặt đỏ gay, mắt ngơ ngác. Vậy là một trận rủa sả tơi bời, hai đứa con bụm miệng cười rúch rích.
- Tao ghét cái tên Ca-rô. Chó thì Vàng thì Vện, thì Mực thì Cò. Khéo bày đặt Ca-rô
- Kính thưa anh Hai, nó lấy tên Tây - Úc lí nhí thưa.
- Tây với U! Tao đây mấy tên Tây?
- Dạ.
- Bên nhà bà Mộng Lan có bầy gà lông trắng chỡn ngó như bầy ma. Vô duyên lấc cấc. Cũng nghe kêu tên Tây. Lơ co, Lơ bo gì đó.
Hai đứa tranh nhau:
- Dạ, Lơ go. Dạ thưa anh Hai, Lơ go.
- Ờ.
Chợt Heo Úc cười rúc rích.
- Cái gì vậy?
- Dạ... - Úc chỉ Sia - Dạ thằng này cũng tên Tây.
Sia lật đật đứng dậy:
- Dạ kính thưa anh Hai, không phải. Em là giống heo ta. Mẹ em nói em bị cam tích rõ ràng mà. Chỉ vì thấy em lông trắng, lão chủ heo lưu manh nói dối em thuộc giống heo Sia.
Heo Bò im lặng không có ý kiến. Nói chuyện bấy nhiêu đó đã mỏi rồi. Mỏi cái miệng và mệt cái óc.
Sau mùa bấc lạnh, trời chuyển sang nóng. Heo Bò bây giờ đã lớn quá, đứng lù lù trông tựa con bò thật (khá khen ai đó đã khéo đặt tên). Bà chủ len lén xuýt xoa: " dám được tạ hai!" . Thằng con hùa theo, - nó biết hễ nói tới heo, khen heo, thương heo, ca tụng heo... là mẹ nó bằng lòng, - cũng nói nho nhỏ: " con chắc tạ rưỡi" . Bà chủ chụp liền: " Ờ, dám tạ rưỡi lắm" . Ông chủ liếc mắt, lặng lẽ bỏ đi trớt ra sân sau. Nghe ứa gan. Thằng nhỏ tối đi đái còn sợ ma thì nó biết gì là " tạ hai" biết sao là " tạ rưỡi" mà con mẹ cũng ờ cũng ừ. Ứa gan thiệt. Mà mình có xía vô nó phang liền.
Tháng Năm trời nóng như thiêu. Sàn xi măng hắt nắng lên. Mái tôn thấp hắt nắng xuống. Ngôi nhà hướng về phía Tây, mặt tiền của nó hắt nắng ra. Nắng hắt bốn bề. Bao nhiêu tấm vải, tấm giẻ, tấm ván, tấm tôn che mưa chặn gió đều gỡ đi hết. Nhưng cái nắng không hất vô mà cái nóng nó tràn vô. Ba mẹ con chia nhau tắm heo. Mỗi ngày hai cữ: giấc nửa buổi và giấc quá Ngọ. Mùa hè nước máy nhỏ giọt nên cuộc tắm kéo dài hàng giờ. Ðã vậy Heo Bò vóc vạc lại cao to bề bộn, diện tích phải kỳ cọ quá rộng so với hai bàn tay nhỏ nhắn của bà chủ. Dùng bàn chải thì sợ đau heo, mà dùng tay thì lông heo cứng đâm đau tay. Giữa Heo và Người phải chọn hy sinh Người. Phải chà xát, phải gãi bươi, nhón chân lên cao, chồm lưng ra xa, cúi thỏm thấp xuống. Thằng con đứng dội nước. Phải nửa tháng mới có kinh nghiệm: dội nhè nhẹ. Sang đến con Sia con Úc thì tay bà chủ đã rã rời. Thằng con tiến lên thay. Tắm xong vẫn chưa được nghỉ ngay. Phải dùng xà bông kỳ cọ thật kỹ tay chân. Sau đó phải kề mũi ngửi khắp vai áo, tay áo xem nước phân có bắt tạt lên dính không.
Ðược tắm mát mẻ, nên chuồng sạch sẽ, ba con heo cảm thấy tột đỉnh sung sướng. Heo Bò khôn hơn, già dặn hơn thì đặt câu hỏi về Số mệnh. Thật muốn bể cái đầu. Ừ thì cũng có nhiều kẻ khác sướng đó, nhưng coi đi coi lại, ai sướng cũng có kèm cái khổ. Con Ca-rô được ăn toàn cơm thì phải thức đêm canh cửa. Con nhện nằm chơi đợi ruồi thì bị cái chổi quét, cái chổi đập, không nhẹp ruột cũng gãy chân. Mà... biết còn có nơi nào sướng hơn ở đây không cà? Ờ... ờ có phải chuồng heo nào cũng giống nhau? Diên Phước thua đây. Còn Diên nào hơn đây? Mà... sướng hơn là sướng như thế nào? Ăn món gì nữa? Thế gian có món gì ăn ngon hơn? Uống ngon hơn? Tắm bằng dầu thơm?
Uấy, mệt. Cứ tự hỏi hoài! Nằm lăn qua cho mát cái lưng đã. Chà mát dữ. Hồi nãy ăn nhằm mớ cám mới xay, thơm và ngọt miệng quá. Ăn quên thôi. Ăn lấn qua phần của thằng Sia thằng Úc. Nhưng chúng nó biết phận, không dám hó hé. A! Mình thấy ra rồi. Muốn sướng thì phải được ăn ngon mà khỏi làm. Chưa đủ. Còn phải được xung quanh nể sợ. Vậy đích thực là mình đang sướng. Gió mát trên lưng, gió mát dưới bụng. Heo Bò thiu thiu ngủ.
Trong khi đó có một người mập ú ngồi ở xa lông nhà bà chủ.
- Thôi bớt cho tôi một trăm ngàn.
- Chắc giá một triệu rưỡi...
- Thì cũng như cho lại tiền xe tiền xăng...
- Nuôi cả năm đó... Mặt mỡ dày e có tám phân...
- Buôn bán thì có khi này khi khác chớ...
Thôi, tính vầy cho mau: bớt cho tôi năm chục. Bữa nài sả thịt, tôi biếu lại cái nọng.
Mùi phân heo bay thốc vào xa lông. Mùi kinh khủng đó chắc chẳng ai lạ. Thoảng ba mươi thước đã cảm thấy ngây ngây. Gần ba mươi thước, muốn ói mửa. Ngồi chỉ cách năm tấc thì... hãy thử tưởng tượng! Nhưng phân heo nó vốn có phép mầu. Nó hôi ở dưới gốc nhưng nó thành mùi hoa thơm ở chót cành. Nó bẩn thỉu ở nền chuồng nhưng nó thành cọc bạc giấy mới tinh ở bàn xa-lông. Vâng, nó đã thành một chồng giấy bạc mà bà chủ đang thong thả đếm.
Heo Bò vẫn thiu thỉu ngủ. Chừng như đang nằm mơ vì thỉnh thoảng cựa mình nghiến răng. Tiếng con Ca-rô sủa dội lên làm Heo Bò giật mình. Giận quá. Ðược, tao sẽ hộc hộc mấy tiếng để bà chủ rượt đánh mày cho bõ ghét. Này! Hộc... hộc... nhưng kìa, sao bà chủ cứ thản nhiên đứng kề ông mập... . À, có thể bà không nghe tiếng mình hộc vì tiếng một cái xe lam đang nổ ầm ĩ trước cổng. Cổng mở. Tiếng cánh cửa kéo nghe nỉ non. Thật buồn cười. Trong khu phố này mỗi cánh cổng có một lối kêu đặc biệt. Cổng 53 thì: ầm ầm oẹ.. e... Cổng 49 thì: lục cục... rì... ì... í. chỉ cổng 51 mới nỉ non thánh thót. Uở, đi đâu mà đông vậy? Tới hai người. Hút thuốc nữa, khói um. Mình không ưa khói thuốc. Muốn hộc hộc cho bà chủ lo lắng chạy lại, tíu tít thăm hỏi bênh vực mình mà đuổi lão đi. Nhưng bực cái tiếng xe lam ồn ào. Thằng đi sau cầm cái gì kia? Cái gì hơi quen quen... Uở, nó bước vô chuồng. Bà chủ ơi, nó vô làm gì vậy? Tráng xi măng như bữa truớc? Lợp lại mái tôn? Không phải, nó cầm cái gì như cái thúng... sao bà chủ cứ đứng yên cười với ông mập?
Chợt cái rọ nhanh như chớp ụp xuống đầu Heo Bò (té ra cái rọ chớ không phải cái thúng) đẩy mạnh tới. Heo Bò sụm hai chân trước. Cái rọ được đẩy mạnh nữa, lút ra sau. Phải nhích hai chân sau bước tới. Và vậy là Heo Bò chun gọn vô rọ. Một sợi dây dừa thoăn thoắt cài qua kéo lại, cột chặt miệng rọ. Khiêng qua cửa chuồng, đặt lên sàn xe.
Những hành động hối hả, chớp nhoáng hung bạo làm Heo Bò choáng váng. Sau đó, Heo Bò dần dần tỉnh hồn. Biết mình đang nằm trong cái rọ. Hồi ở Diên Phước ra đi cũng trong một cái rọ nhỏ hơn. Vậy thì cũng chẳng có gì để sợ. Hồi nãy quả là mình có sợ, sợ đến tối tăm mặt mũi, ù tai. Bây giờ thì yên tâm. Chắc chuyển đi tới ở một chuồng khác, có hy vọng sướng hơn chỗ này nữa. Ờ, sướng hơn thế nào, mình đã nghĩ đến cả hàng trăm lần mà mình vẫn không tưởng tượng ra được. Chẳng lẽ được ngồi trong cái ghế xa lông?
Còn lũ thằng Sia thằng Úc. Hồi nãy thất kinh, không kịp nói lời chào hai đứa. Hai đệ tử ngoan ngoãn dễ thương. Anh Hai giã từ tụi mày. Mong rằng ba, bốn tháng nữa tụi mày lớn bằng anh Hai hôm nay, tụi mày cũng được lên xe lam về ở chung một chỗ sướng với anh Hai. Ờ, chắc lúc đó mình đứng cao bằng cái chuồng!
Bà chủ! Em nhìn bà chủ qua cái lỗ rọ đây. Bà đẹp hơn mọi ngày, bữa nay nhìn xa em mới thấy. Ðôi mắt bà ấm áp dịu dàng. Nụ cười bà nhân từ phúc hậu. Nhưng sao bà cười với ông mập nhiều vậy mà bà không lại vuốt ve em như ngày trước bà vẫn thường làm? Em muốn méo cái mũi của em để hít bàn tay bà...
Ông mập bắt tay bà chủ, nắm hơi lâu rồi mới nhanh nhẹn đi ra cổng bước lên xe. Xe rồ mạnh, vọt tới. Heo Bò nhìn bà chủ qua lỗ rọ.
... Bà nhìn theo em kìa! Nhưng sao mặt bà không buồn? hình như bà đang vui nữa. Nụ cười khi bà bắt tay ông mập, bà còn giữ đó. Trên môi. Em sẽ đến ở một cái chuồng mới. Hy vọng sung sướng. Em biết đó là do lòng thương yêu đặc biệt bà dành cho em. Nghe nói xã hội loài người đang văn minh. Cái gì cũng mã hóa và giải quyết bằng vi tính. Vậy cái chuồng mà em sắp được dọn đến ở nhất định là toàn hảo. Thực đơn sẽ không phải nước vo gạo, cơm nguội và cám, rau heo... mà là thức ăn đặc sản thải từ khách sạn 3 sao 5 sao. Bà chủ mới sẽ gãi em, tắm em bằng máy... vi tính. Trời ơi! Hạnh phúc!
Xe chạy êm. Ngã tư Ngô Gia Tự. Rồi ngã tư Hoa Lư. Sang ngã tư Nguyễn Trãi. Chợt xe quẹo ngặt qua tay trái. Thoáng chốc không còn thấy bà chủ nữa. Những ngôi nhà, những khuôn mặt, những dáng người khác lạ lắp vào thay thế. Nhưng Heo Bò vẫn nghĩ tiếp những ý nghĩ dở dang. Những ý nghĩ êm đềm.
- ... Bà chủ thân yêu, em sẽ mãi mãi không quên bà...241