Phái đoàn của Hội Liên hiệp Phụ nữ CCCP đi tham quan châu Phi trở về. Cơ quan KGB phát hiện một cuốn sổ nhật ký rất khả nghi của trưởng đoàn Natasa, có đoạn ghi chép như sau: Ngày... Onga bị cưỡng bức... Ngày... Olia bị ép... Ngày... đến lượt mình... ... Natasa được mời lên thẩm vấn:
- Chị hãy giải thích, tại sao phái đoàn gồm 8 người mà có tới 7 người bị xâm hại tình dục, duy nhất có Galia không sao?
- Đơn giản là vì cô ấy... không muốn.
2405




Ông giáo Minh soạn bài để giảng một bài thơ xuân. Trong bài thơ có một ông sư già và một cô gái trẻ. Đề tài hấp dẫn như thế, vậy mà đã ba ngày rồi ông chưa hạ bút được một câu.

Sáng nay, ông lại ngồi trước trang giấy trắng. Vợ vừa đi làm. Con còn ngủ. Nhà thanh vắng. Ông nhắp ly cà phê, chờ ý đến. Ý đầu tiên đến với ông là cái giấy phạt xe. Ông vừa ngừng xe, vào tiệm mua bao thuốc lá, trở về xe thì cái giấy phạt đã hiên ngang nằm trước tấm kính. Ông vội vàng xua đuổi ý đó đi, và nó đi ngay, nhưng ông lại chợt nhớ rằng trước khi đi làm, vợ ông có dặn trưa nay phải cho con cái ăn uống đàng hoàng, đừng bắt chúng ăn mãi trứng gà bảy món. Ông lại phải đuổi gà đi, và đuổi thêm năm bảy ý khác nữa, thì, may quá, thơ hiện ra. Nhưng không phải ông sư già và cô gái trẻ.

Từ đâu trong dĩ vãng xa xăm, từ tiếng con ve sầu hay tiếng một vỏ cây nẻ ra dưới nắng hạ, mấy câu thơ của Verlaine bay vào đầu ông :


Je fais souvent ce rêve étrange et pénétrant
D'une femme inconnue, et que j'aime, et qui m'aime
Et qui n'est, chaque fois, ni tout à fait la même
Ni tout à fait une autre, et m'aime et me comprend


Có chàng trai nào học văn chương Pháp ở thế hệ ông giáo Minh lại không từng ngẩn ngơ với mấy câu thơ trữ tình này !

Tôi thường mơ một giấc mơ lạ kỳ và sâu thẳm
Về một người đàn bà chưa hề biết, mà tôi yêu, và yêu tôi
Và, người đó, mỗi lúc chẳng phải hẳn cùng là một
Cũng không hẳn là người khác, và yêu tôi và hiểu tôi

Tôi hằng mơ mộng về một người đàn bà mà tôi chưa hề biết... Có sự thực nào hiển nhiên hơn sự thực này không trong trái tim của ông giáo Minh từ thuở mười tám ? Mơ mộng về một người trống không, không có hình ảnh, không có mặt mũi ! Mà lạ thật, cái khuôn mặt không có mặt ấy mới đích thực là khuôn mặt của người ông yêu. Người đó không có mà cứ có. Không biết mà cứ biết. Không thấy mà cứ thấy. Mơ hoài, bởi vì chắc chắn là có thực.
Ông giáo Minh mỉm cười nghĩ đến những cô gái mà ông tưởng ông yêu thuở mười tám, hai mươi. Sự thực là không phải ông yêu. Ông yêu tình yêu. Ông yêu chuyện yêu đương. Không phải ông yêu cô này cô khác. Bởi vì cứ mỗi lần bướm trong lòng ông vờn chân toan đậu trên một đóa hoa thì nó lại chớp cánh bay qua hoa khác, giữa vườn, cuối vườn, bên kia hàng dậu. Người đàn bà mà ông mơ mộng yêu đương không phải là người này cũng chẳng phải là người kia, không phải là một cũng chẳng phải là khác, không phải như thế cũng chẳng phải không như thế. Vừa là Oanh, vừa là Yến, mà cũng vừa chẳng phải là Yến, là Oanh.
Cái chẳng là... chẳng là... đó làm ông lận đận dài dài trong đời sống tình cảm. Bởi vì ông hiểu sai câu thơ! Chẳng là một, chẳng là khác, điều đó không có nghĩa là ông phải lang thang bay bướm suốt đời trong vườn hoa biết nói. Điều đó có nghĩa khác mà ông chỉ chợt hiểu khi tuổi đã hết xuân, nhân một chuyện buồn bỗng trở thành chuyện vui. Ông có một người chị họ mà ông rất thương, rất quý. Chị yêu một người mà ông cũng rất quý, rất thương. Cả hai đều đẹp, tình yêu họ đẹp, tương lai trong sáng. Hai gia đình hứa hôn, và... chiến tranh, và anh chết, chết như bỗng dưng, như giả vờ, "nằm chết như mơ" (1). Chị sống như một quả phụ trong hơn mười lăm năm, rồi chị lấy chồng. Trước ngày đám cưới, chị lên chùa, mang tất cả thư từ, kỷ niệm của anh ấy, nhờ sư cụ đốt. Chị thắp hương, nói nhỏ : " Nhờ thầy đọc cho con bài kinh Bát Nhã ". Sư cụ đọc kinh, rồi viết lên trên bao hương một bài thơ, bảo chị đọc, rồi tự tay đốt trước bàn thờ :

Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng

Sau này, ông giáo Minh biết bài thơ đó là của Huệ Sinh đời Lý. Ông tự dịch :

Pháp cũng như vô pháp
Không có cũng không không
Nếu hiểu được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng

Tình cờ của cuộc đời đã đem có-không vào chẳng là... chẳng là... của bài thơ lãng mạn thời niên thiếu. Người chị họ kia chẳng hề nói với ông một lời gì trước khi lên chùa cũng như sau đó. Nhưng sự thán phục và kính mến của ông đối với người đàn bà rất gương mẫu đó đã khiến ông phải tìm hiểu hành động của chị. Không phải chị xin hương hồn của anh ấy hãy xem chuyện có kia cũng như không. Trong mười mấy năm trời, chắc chị đã học được chữ " không" từ trong cốt tủy, và chắc chị cũng nghĩ rằng hương hồn của anh ấy đã học được chữ " không " như chị. Chắc chị hiểu chữ
"không" trong cái nghĩa không còn mình, không còn người, không còn ranh giới, phân biệt, không còn của tôi, của anh, không còn ghét, giận, hờn, ghen, đắm say, vướng mắc, và khi đã hiểu như vậy rồi thì chỉ còn tình thương bao la, thương không phân biệt, anh thương chị, chị thương anh, chị thương chồng, chồng chị thương chị. Như vậy, chẳng là... chẳng là... đâu có phải tiêu cực, phủ định, nó đưa đến một cái gì rất tích cực, khẳng định, như tình thương bao la vượt trên có-không: cái đó, ông giáo Minh không thấy lúc niên thiếu, nhưng ông biết chắc rằng ông không thể chết trước khi thấy cái không thấy đó.

Ông san sẻ với học trò chuyện tỉnh chuyện say trong cái thấy đó của ông. Ngày Tết, học trò đến thăm nhà, vui miệng ông đọc thơ :

Hôm nọ em biếng học
Khiến cho anh bất bình
Khẽ đánh em cái thước
Vào bàn tay xinh xinh

Đây là bài thơ rất quen biết của thời bắt đầu thơ mới (2). Anh đánh em cây thước, em giận, em lẫy, em bỏ học, em làm thinh, em không chơi với anh nữa; anh buồn, anh khổ, anh hối hận, anh quay quắt; ấy thế bỗng sáng nay em đến xin lỗi, anh mừng quá, mừng hết lớn, nhưng anh vênh mặt làm cao: sao không giận mãi đi?
Bàn tay thì xinh, cái thước, dù đánh khẽ, vẫn nghiêm khắc quá. Không ai đánh người đàn bà, dù bằng đóa hoa. Đánh như thế, đau chính tay mình. Học trò nghe ông giáo Minh lẩn thẩn hỏi: cái thước đánh vào đâu nhỉ? Chắc chắn không phải vào lòng bàn tay mà trên lưng bàn tay, vì khi học, khi viết, bàn tay phô lưng ra chứ không phô lòng. Nhưng cô bé đâu có đau gì nơi lưng bàn tay, cô đau nơi chỗ mà người ta gọi là tự ái. Chỗ đau đó không thấy, nhưng đó là chỗ đau thực, vết thương nơi bàn tay, dù có, cũng chẳng hiện hữu gì. Thế nhưng, đối với ông giáo trẻ, ông chỉ thấy hiện ra hoài trước mắt cái đau nơi lưng bàn tay. Bao nhiêu lần ông muốn gởi hối hận của ông vào lưng bàn tay kia, nhưng nào cô bé có cho ông thấy! cô giấu để phạt ông! cô biết ông nhìn lòng bàn tay mà cứ thấy hoài cái không thấy là cái lưng.
Tác giả bài thơ đừng giận ông giáo Minh đã đưa thơ của ông đi quá xa. Thơ mà không dẫn người đọc đi xa, kể cả đi lạc đường, thì không phải là thơ. Người đọc thơ, cũng như người xem tranh, đều là những kẻ lạc đường. Đọc thơ để mà lạc đường, bởi vì chỉ những con đường lạc mới dẫn đến chỗ hẹn hò - đến chỗ hẹn hò với thơ. Có ai đọc thơ để thấy chữ đâu! Để thấy cái không thấy đàng sau chữ nghĩa. Cái không thấy đó, có thể mỗi người thấy mỗi cách, nhưng ai cũng thấy cái đó, cũng biết chỉ cái thấy đó là thực, là không mà có, chữ nghĩa là có mà không. Lại vui miệng, ông giáo Minh giảng Kiều cho học trò. Ông đọc:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Cái núi là thực chăng? Cái mặt trăng là thực chăng? Tất cả chỉ là tấm màn hư ảo; cái gì ở đàng sau tấm màn đó mới là thực, và cái đó là nỗi cô đơn của nàng Kiều. Không đi lạc đường vào nỗi cô đơn đó, mà cứ tìm trăng và lỗ khóa mà đến thì chẳng gặp Kiều đâu cả, chỉ thấy cái lầu xanh.
Mông mênh là cái không thấy đàng sau cái thấy. Mông mênh cả mùa thu nơi chiếc lá đầu tiên từ cây ngô đồng đang rơi. Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu. Cả thiên hạ đều thấy cái không thấy. Mông mênh là cái biết thực đàng sau những cái biết lừa dối. Biết cả vũ trụ!
Ông giáo Minh xoay mãi cây bút; trang giấy vẫn còn nguyên. Kỷ niệm xa xưa thì về. Ông sư già và cô gái trẻ thì không đến. Ông biết chỗ dở của ông là tâm không định, ý nhảy bông lông như vượn chuyền cành. Nhiều lần ông định đi học ngồi thiền để tập chú tâm, nhưng tính ông lại đa nghi: biết ông thầy kia đang " thiền " hay đang nghĩ hươu nghĩ vượn như ông? Ông chỉ không nghi Phật mà thôi. Phật ngồi nhập định bốn mươi chín ngày nơi gốc cây bồ đề là chuyện thật lịch sử. ấy thế mà có người còn đa nghi hơn ông. Còn hỏi: ông có thấy cái định của Phật đâu mà dám nói rằng cái định đó rất sâu? Ông giáo Minh còn nhớ câu trả lời: hoa sen nở to thế kia, thế tất cuống sen phải đâm rất sâu vào bùn (3) ; ngọn đèn cháy to thế kia, thế tất cái bấc phải lớn, bình dầu phải sâu. Cuống sen là cái không thấy mà thấy; cái bấc, bình dầu cũng vậy. Ai cũng có con mắt thứ ba cả: tùy muốn mở hay nhắm.
Tất cả những bài thơ về mùa xuân của thời Lý-Trần mà ông giáo Minh vừa đọc lại mấy hôm nay đều mượn hứng từ con mắt thứ ba đó. Xuân trong thơ của các thiền sư là xuân đến, xuân đi, là lòng vượt lên trên sự đi, sự đến. Là không, là có, là cái biết vượt lên trên chuyện có, chuyện không. Xuân đến xuân đi như vậy thường nằm chung trong một bài thơ như bài thơ nổi tiếng của Mãn Giác :

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai

Dường như chỉ có Trần Nhân Tông mới dành nguyên cả bài cho xuân đến, cả bài cho xuân đi. Đây là xuân đến :

Liễu rũ hoa hồng chim hót ca
Mây chiều in bóng trước hiên nhà
Khách vào, thế sự không cần hỏi
Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa (4)

Ai bảo đi tu không biết ngắm xuân ! Thương xuân hơn bất kỳ ai khác, thương đến độ lòng thương thấm cả vào lòng người khách đến chơi. Người đọc thơ tưởng mình bước vào bài thơ như bước vào hiên nhà Điều Ngự Thượng Hoàng : không nói gì cả, chỉ lặng yên để lòng tan vào cảnh. Cảnh xuân của ngài là lòng nhẹ lâng lâng.
Đi tu có biết vui không nhỉ ? Ông giáo Minh khẳng định : biết chứ ! Trần Thái Tông tả : ở trong đó có cái thú vị riêng không ai hay biết, nhà sư trong núi mặc tình vui đến sáng :

Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh

Nhưng cái vui của người đi tu không ồn ào. Hoa xuân nở rộ, tiếng xuân vẫn lặng lẽ. Chỉ có ông Hàn Mặc Tử mới la lối om sòm để báo động mùa xuân vừa đến :

Chàng ơi ! chàng ơi ! sự lạ đêm qua
Mùa xuân đến mà không ai biết cả

Tưởng tượng ông Hàn Mặc Tử hớt hơ hớt hải chạy xộc vào hiên nhà Điều Ngự la lớn : Ngài ơi ! ngài ơi ! sự lạ... Rồi im bặt, và se sẽ bước chân đến dựa lan can.
Lặng yên như thế mà vào cuối đời, Trần Nhân Tông còn nói rằng mình chưa đủ yên lặng. Ngắm cảnh, vua còn gởi lòng nơi muôn hoa, còn vướng với hoa, còn vui còn buồn. Bây giờ, hiểu được mặt mày của sự vật, vua thản nhiên, thanh thoát nhìn xuân qua hoa rụng. Đây là xuân đi :

Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không
Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng
Diện mục xuân nay từng khám phá
Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng (5)

Học trò chất vấn ông giáo Minh : thấy hoa nở không vui, thấy hoa rụng không buồn, trơ trơ gỗ ngói như vậy, chúng tôi không tu đâu ! Ông cãi : vui buồn ai chẳng có, khác nhau ở chỗ vui mà không vướng mắc, buồn mà không hệ luỵ. Thản nhiên không phải là trơ trơ, thản nhiên là vượt lên trên : thấy không, thấy có, và vượt lên trên có không thì an nhiên tự tại, tự do tung hoành, thì khi nào hoa cũng có đấy vì khi nào lòng cũng bình yên như hoa nở. Cắt nghĩa như thế, học trò vẫn phân vân, nhưng đọc câu thơ Mãn Giác thì cậu nào cũng cảm nhận được cái không thấy đó :

Đừng tưởng xuân đi hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

Hứng thơ đó - ông giáo Minh cắt nghĩa - bàng bạc trong thơ thiền. Một nhà thơ lớn khác đời Trần, Huyền Quang, cũng gợi lên một cảm nhận tương tự khi ông tả hoa cúc cuối thu :

Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn

Vẫn còn hoa đấy ! Vội gì chưa kịp nhìn hoa đã để cho ý lông bông chạy theo chuyện " tàn ", loanh quanh luẩn quẩn với buồn, phai, rơi, rụng, tiếc nuối, biệt ly, xa mất cánh hoa mà mắt đã thấy ở giây phút đầu tiên. Hãy trở về với cái thấy đầu tiên đó, cái thấy trinh nguyên không vướng những chia cách của " đi " của " đến ", của " hôm qua ", " hôm nay ", " năm này ", " năm ngoái ", những chia cách càng lúc càng đẩy xa người ngắm hoa ra khỏi hoa, người ngắm trăng ra khỏi trăng. Mà làm gì có hôm qua ! Đâu là biên giới của hôm qua ? "Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà": đâu là biên giới của trưa, đâu là biên giới của chiều ? "Tháng mười chưa cười đã tối": đâu là biên giới của ngày, đâu là biên giới của đêm ? Chẳng là một, chẳng là khác đấy thôi ! Ông giáo Minh mượn tay Tuệ Trung để đập vỡ những phân biệt đóng khung đó : trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay, hoa nở năm mới cũng là hoa năm cũấ:

Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt
Tân niên hoa phát cố niên hoa

Và ông vỗ tay tuyên bố : mấy trăm năm sau, ai ngờ Nguyễn Du dịch thơ Tàu với cái thấy đó của Tuệ Trung :

Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

Hoa đào năm ngoái cười, chứ không phải hoa năm nay y cựu tiếu đông phong, cười như hoa năm ngoái. Không phải : vẫn nụ cười đó, mà là : vẫn hoa đó. Mấy ai thức giấc khi gà vừa gáy sáng, nghe tiếng gà gáy mà còn phân biệt gà gáy sáng nay với gà gáy sáng qua : tiếng gà không phải là một, không phải là khác. Hãy thử tiếp tục cứ để cho ý dẫn đi lang thang phân biệt như thế giữa một với khác, giữa đến với đi, rồi xemấ: rốt cuộc chẳng nghe tiếng gà đâu nữa. Nghe gà gáy thì người nghe với tiếng gà là một. Suy nghĩ loanh quanh thì người với tiếng gà bỗng thành hai. Thì người bỗng thành hai với chính mình ! Quên mất hoa để dựa vào nở, dựa vào tàn là dựa vào cửa ngỏ nhà người ta, Tuệ Trung nói như vậy. Hãy trở về nhà của mình, và ngay khi thấy điều đó thì vụt một cái,

Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa.

Một chấm ánh nắng mùa xuân thôi, một chấm thôi, cả vũ trụ hoa nở. Cái chấm đó, cái giây phút bừng sáng đó, ông phải mượn thơ để diễn dạt, bởi vì chỉ có thơ mới làm thấy cái chỗ không thấy. Một buổi chiều nào đó, tâm hồn thư thả, cứ thử ngồi ngắm hoa. Rồi bỗng thấy lạ lùng, như tuồng hoa muốn nói chuyện với mình. Làm sao diễn tả cái hồn nhiên của người ngắm hoa ? Làm sao diễn tả cái hồn nhiên của hoa cúc nở ? Làm sao nói đươc trạng thái tuyệt vời khi người không còn phân biệt với hoa, khi hoa không còn phân biệt với người, khi hai cái hồn nhiên chỉ còn là một ? Đành phải mượn thơ Huyền Quang :

Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
(Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nở tung)

Chợt nở... Cái không thấy thường là chợt thấy. Khắp nơi hoa nở. Nở tung ! Trong nháy mắt !
Huyền Quang là một nhân vật ly kỳ, trong cuộc đời, trong giai thoại. Học giỏi, nghe một biết mười, ông đậu thủ khoa kỳ thi hội năm 21 tuổi. Cha mẹ cưới vợ cho ông, ông không chịu. Vua yêu tài, muốn gả công chúa cho ông, ông chối từ. Làm quan trong triều, tiếp sứ Trung Quốc, ông không ham chức vị, chỉ muốn đi tu. Ba lần dâng biểu xin từ chức, mãi đến năm 51 tuổi ông mới được toại nguyện xuất gia. Tài năng xuất chúng, đạo hạnh nghiêm trang, Huyền Quang được suy tôn làm tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Con người đạo cao đức trọng như vậy mà lại bị hàm oan vì miệng lưỡi của một cung nhân. Biết sư có tiếng là giới hạnh cao nghiêm, vua Minh Tông sai cung nữ Điểm Bích nhan sắc tuyệt vời đi thử lòng sư. Giai thoại ly kỳ, đây là đoạn cuối : Minh Tông hối lỗi, sụp lạy tạ tội.
Con người đặc biệt. Thơ cũng đặc biệt, ít thuật ngữ Phật giáo mà vẫn thanh thoát, đạo vị. Ông yêu hoa cúc. Người tri kỷ của ông ở thế kỷ này, tác giả Nguyễn Lang, hạ một câu trữ tình khi viết về Huyền Quang của hoa cúc: "hễ thấy hoa cúc là tâm tình rộn ràng như một người trai trẻ vừa thấy bóng người yêu" (6). Rộn ràng như thấy bóng người yêu là món sở trường của ông giáo Minh. Chẳng lẽ ông thua cuộc ?
Còn gì hấp dẫn hơn khám phá chất trữ tình trong thơ thiền ! Ông giáo Minh đã đọc gần như thuộc lòng đoạn kết của bài " Mấy lời tâm đắc " mà ông rất tâm đắc trong cuốn Thơ Văn Lý-Trần của Viện Văn Học (7). Chỉ mấy câu này của người bình thơ làm ông không hài lòng :
" Tình yêu nam nữ đã làm cảm hứng cho nhiều bài thơ rất tình tứ mà vẫn rất " trong trẻo ". Tôi chỉ muốn nhắc lại ở đây một bài đặc biệt có ý nghĩa, vì tác giả là một nhà tu hành, một nhà sư " đạo cao pháp rộng " đã được tôn làm vị " tổ sư thứ ba " trong quốc tự đời Trần - nhà sư Huyền Quang, một ngày xuân, ý chừng hồi này ngài còn trẻ, và cuộc gặp gỡ cố nhiên là ngẫu nhiên. Vậy, một ngày xuân nọ, nhà sư thấy một thiếu nữ rất xinh ngồi thêu. Bỗng mũi chỉ đường kim dừng lại... và từ trong lùm cây tử kinh hoa trổ rộ nghe thanh thoát tiếng hót của mấy chú hoàng ly. Nhà sư viết ngay bốn câu tứ tuyệt dưới đầu đề Tức cảnh ngày xuân ".
Rõ ràng thơ xuân Huyền Quang khác hẳn các bài thơ xuân trước. Ông đưa vào thơ một cô gái trẻ, đôi tám xuân xanh. Thế mới có chuyện ! Chuyện ông sư già với cô gái trẻ ! Chẳng biết ông làm bài thơ này lúc bao nhiêu tuổi. Nhưng dù ở tuổi nào đi nữa, bài thơ quá " trong trẻo " để lòng người đọc chẳng vướng chút bụi mờ gì của hồn ma Thị Bích.

Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Đường kim bỗng chậm lại trên tay cô nàng đẹp mười sáu xuân xanh
Mấy chú oanh vàng thỏ thẻ trong lùm tử kinh hoa rộ
Thương quá đi bao nỗi lòng thương xuân vô hạn
Đang trút cả vào giây phút ngừng kim và im phắc)

Ông sư già và cô gái trẻ ! Họ đến rồi ! Bám chặt bài thơ, ông giáo Minh lẩm nhẩm : " tình yêu nam nữ đã làm cảm hứng...". Tình yêu nam nữ nào đây ? Hôm nọ em biếng học ? Rêver d"une femme inconnue ? Quả là có một người con gái, lại là con gái đẹp. Nhưng đâu là chàng trai ? Ông giáo Minh vốn sở trường về chuyện gặp người yêu, nên ông dễ dàng tưởng tượng một cuộc gặp gỡ " cố nhiên là ngẫu nhiên ". Ngày xuân ấm áp, cô gái ngồi thêu cạnh cửa sổ, vô tình không thấy một chàng trai đang lén nhìn... Ông giáo Minh thất vọng, thấy tưởng tượng của mình nghèo nàn quá. Bài thơ sâu thăm thẳm, khó đo bằng gang tấc của tình yêu nam nữ thường tình. Mà ai nhìn trộm cô gái xuân vậy ? Tại sao không nghĩ chính là mùa xuân ? Mùa xuân đến nhè nhẹ bên cạnh cô, mùa xuân làm ấm má cô như một bàn tay. Có kẻ thấy má cô hồng lên vì thẹn, vì hồi hộp : đó là hai con oanh vàng đang khúc khích với nhau trong khóm hoa. cô thẹn, và lần đầu tiên cô biết cô thẹn về tình ý xôn xao trên má cô khi gặp tình ý xôn xao của bàn tay mùa xuân. Giây phút thần tiên giao cảm ! Giây phút nhỏ như mũi kim, mong manh như hạt bụi, nhưng từ đó bừng nở cái chợt thấy nơi cái không thấy, không lời.
Ông giáo Minh vẫn cảm thấy không bằng lòng. Cảm thấy bất lực. Bài thơ bay lên như một đôi cánh vỗ : nơi cánh này, có bàn tay đang thêu bỗng đường kim chậm lại rồi ngừng thoắt ; nơi cánh kia, có hoa đang nở, chim đang hót bỗng im bặt. Cái gì vậy ? Tương quan gì vậy ? Cái gì kỳ lạ khiến hai cánh giao thoa với nhau như vậy ? Khiến người và cảnh bắt gặp ý nhau như vậy ? Hợp với nhau làm một như vậy ? Hai cánh là hai hay là một - một đôi ? Bài thơ là khác hay là giống các bài thơ trước ? Hay là vừa giống vừa khác ? Sự gặp gỡ giữa người ngắm hoa cúc và hoa cúc nở có giống sự gặp gỡ giữa cô gái xuân và mùa xuân chăng ? Ai cũng biết : muốn thấy cá phải nhìn nước, vậy muốn thấy mùa xuân làm sao không nhìn cô gái xuân ? Làm sao tách hai ra được ?
Ông giáo Minh muốn lạc đường. Ông muốn nghĩ đến ông tăng vô ngữ nơi chùa Gia Lâm, tiễn khách về, không nói, trong lúc hoa thông rụng đầy đất thơm :

Khách khứ tăng vô ngữ
Tùng hoa mãn địa hương (8)

Ông đi như thế bên cạnh ông tăng, bỗng chợt khám phá ra chuyện phi lý ông đang làm : ông tách ông với bài thơ ra làm hai trong khi đáng lẽ ông nhập một với nó, như khách, tăng, hoa, đất, hương thơm hợp với nhau làm một trong im phắc. Ông tách ông với trực giác ra làm hai, trong khi trực giác, nhọn hoắc như mũi kim, chưa bao giờ biết phân biệt. Ông đóng cửa sổ giữa ông với cảnh, giữa ông với sự vật, giữa ông với ông : bên kia cửa sổ là cỏ non xanh tận chân trời. Nơi mênh mông bát ngát không ranh giới, không phân biệt ấy, và chỉ nơi ấy mà thôi, ông mới tìm ra được cái không thấy, cái mà ông mơ mộng hoài suốt đời : khuôn mặt không phải là một, không phải là khác của Thuý Kiều e ấp nép dưới hoa.
Cao Huy Thuần

Chú thích
Chú thích thì đạo mạo quá. Mà không chú thích thì e có người bắt bẻ : sao không chú thích ? Vậy thì :
1. Mấy chữ " nằm chết như mơ " hiển nhiên là nhạc Trịnh Công Sơn. Tự nhiên nói đến chiến tranh thì mấy chữ đó bay về đậu trên tay, đuổi không đi.
2. Bài thơ Giận nhau là của Nguyễn Xuân Huy.
3. Ví dụ về cuống sen đâm sâu trong bùn là lấy trong Luận Đại Trí Độ, Tập 2, HT Thiện Siêu dịch, NXBTPHCM, 1999, trang 37.
4. Bài Cảnh xuân của Trần Nhân Tông nguyên văn như sau :
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Hoạ đường thiền ảnh mộ vân phi
Chỉ bạng lan can khán thuý vi
Thơ dịch của Nguyễn Lang
5. Bài Cuối xuân :
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiên bản bồ đoàn khán truỵ hồng
Vẫn thơ dịch của Nguyễn Lang
6. Câu viết " trữ tình " của Nguyễn Lang về Huyền Quang và hoa cúc nằm trong trang 441 của tác phẩm của ông : Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 1, NXB Văn Học Hà Nội, 1994. Mấy câu thơ về hoa cúc của Huyền Quang cũng do cùng tác giả dịch.
7. Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học là của Đặng Thai Mai, Thơ Văn Lý-Trần, Tập 1, NXBKHXH, Hà Nội, 1977, trang 44.
8. Bài Chùa Gia Lâm là của Trần Quang Triều đời Trần. Nguyễn Lang dịch thơ :
Tro lòng tàn mộng nhỏ
Chân dạo tới thiền đường
Cuối xuân sắc hoa nhạt
Rừng vẳng tiếng ve suông
Mưa tạnh trời bích ngọc
Hồ lặng lộ khuôn trăng
Khách về, tăng chẳng nói
Hoa thông rụng ngát vườn. 284




Sáng sớm, chồng đưa vợ tiền đi chợ. Khi vợ đi chợ về chồng hỏi còn tiền dư đưa mua rượu uống. Vợ nói:

Vật giá leo thang, cái gì cũng mắc, ông đưa có bấy nhiêu không đủ mua, lấy đâu mà dư?

Chồng hỏi:

Cái gì mà mắc? Giá cả có chánh phủ kiểm soát, bọn gian thương sắp bị chém đầu rồi mà!

Vợ nói:

Ông thử đi một lần sẽ biết. Món này hồi đó 10 đồng, bây giờ 50 đồng, món kia hồi đó 100 đồng bây giờ 300.

Chồng sừng sộ:

Tại sao má mày không tìm cái món hồi đó mà mua có phải rẻ hơn món bây giờ không?


2876




Trên đường đi học về, thấy Hoàng yên lặng khác thường, Dũng ngạc nhiên:

- Sao bồ có vẻ thất thần vậy?

- Hôm nay tớ có kiểm tra, nhưng tớ phải nộp giấy trắng!

- Chắc là không học bài nên phải nộp giấy trắng chớ gì.

- Không đâu, hôm kia tớ mơ là nghe thầy nói ai cóp-pi sẽ bị zerô, còn ai bắt quả tang bạn mình quay cóp sẽ được thưởng điểm 10. Cho nên hôm qua tớ không thèm học bài, để hôm nay ngồi canh xem có ai quay không cho khỏe, nào ngờ...
1616




Tui có nuôi một con trăn gấm, cũng không còn nhớ là được mấy năm. Nó lớn quá cỡ, lớn đến nỗi mình kiếm đồ ăn cho nó không xuể. Mỗi tháng tui cứ thả cho nó ra rừng tự kiếm ăn một lần. Có lần vài ngày, có lần cả tuần lễ nó mới về. Nó ăn nào là chồn đèn, chuột cống, cúm núm, trích cồ...

Có một lần, cũng như thường lệ, bầy trẻ cho nó ra rừng kiếm ăn. Nó đi hai bữa, rồi ba bữa cũng chưa thấy về. Rốt lại mười bữa rồi cũng mất tiêu luôn. Bầy trẻ túa ra đi quần kiếm mà không gặp. Chắc là nó lại về rừng. "Lá rụng về cội" thôi. Loài thú rừng mà... Cả nhà ai cũng tiếc con trăn gấm, nhưng ngày qua ngày rồi cũng quên.

Vào độ nửa tháng Chạp năm đó, nghe tu hú kêu ngoài bụi tre, thấy gió chướng vờn trên lá cây, tui nhớ ra đã gần ngày Tết. Vợ chồng con cái tui vác phản, ôm lưới lội ra cái đìa mé rừng mà chụp cá. Cái đìa mới đào hồi mùa hạn, chưa kịp cắm chà gộng gì cả. Nhưng dù sao cũng có cá đủ ăn Tết. Nhờ cái nó nhẹ dọn cỏ và cũng khỏi nhổ chà.

Cha con tui bỏ lưới trên bờ, dùng phản rong mé cỏ. Một chuyện lạ đời là mỗi nhát chém xuống, phản nào cũng trúng nhằm chà nghe rốp rốp.

Ai lén cắm chà đìa mình vậy kìa ? Tui tự hỏi, rồi cố dọn cỏ cho xong. Mấy cây phản giở lên coi, cây nào cũng mẻ sếu sáo như lưỡi cưa hết thảy.

Đến khi cỏ được kéo cả lên bờ, tui lại thấy dưới đìa đầy chà gộng ló lên mặt nước. Kỳ lạ là toàn chà cùi, không có nhánh nhóc gì hết. Chà bắt đầu xạo xự mạnh lên như có ai lặn ở phía dưới, rồi cầm mà rung. Chừng đó cha con tui mới bật ngửa. Té ra con trăn của nhà mình lâu nay nó ra rừng ăn phải bầy nai chà, nên chà gạt nai đâm lủng lưng, trổ lên phía trên. Có lẽ vì đau quá, nên nó còn nằm đấy dưỡng bịnh, chưa chịu về chuồng.1184




Một anh chàng nhút nhát phải thu hết can đảm mới nói được điều quan trọng nhất với cô gái mà anh ta theo đuổi đã lâu:


- Em à (hắng giọng rồi cất tiếng) - Người chưa vợ có nhiều thuận lợi nhưng đến lúc nào đó thì anh ta lại mong muốn một tình thân, muốn có ai đó để quan tâm chăm sóc, ai đó có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn...


Anh chàng mừng rơn thấy cô gái có vẻ xúc động. Cuối cùng, cô reo lên:


- Em nghĩ ra rồi. Em sẽ tìm giúp anh một con chó nhé???

456






Trời mơí vào Thu, đêm mát và trong, mặt trăng sáng vằng vặc treo trên cao toả ánh sáng mờ diụ xuống khu vườn êm ả. Hương thơm của loài hoa Honeysuckel toả diụ dàng. Anh và tôi ngồi nơi góc vườn có hàng hoa Orleander đang lào xaò khoe những chùm hoa màu tím sẫm, bao quanh anh và tôi là một thế giới rất riêng tư, gần gũi.

Chúng tôi ngồi yên lặng như thế đã lâu, dường như không ai muốn phá đi cái không khí tĩnh lặng huyền hoặc. Anh móc tuí lấy 1 điếu thuốc, bật lửa châm hút. Ánh lửa chiếu sáng khuôn mặt anh, anh đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt anh sâu hun hút cho tôi có cảm tưởng hụt hẫng. Anh lên tiếng:

- Lâu quá rồi không gặp em, có gì lạ không em?
- Tất cả bình thường hết anh ạ. Chỉ có anh vẫn là chuyện lạ.
- Thế còn chuyện cuả em với Vĩnh thế nào rồỉ Hai đứa vẫn êm ấm chứ nhỉ(?)
- Vĩnh rất tốt với em, Vĩnh yêu em.
- Còn em thì sao?
- Em thương Vĩnh nhiều.
- Vậy thì anh mừng.
- Anh mừng cho em hay cho anh? Đã lâu rồi giờ anh mới ghé chơi, em mong anh!
- Đừng hỏi anh những câu hỏi anh không dám trả lời nghe em. Em biết những việc anh phải làm và những nơi anh cần tới mà.
- Chỉ là những tin tức mơ hồ, anh có bao giờ cho em biết rõ đâu.

Anh cầm lấy hai tay tôi, xiết nhẹ.

- Em biết cũng không giúp gì cho ai hết, có chăng chỉ làm em lo lắng thôi. Mà đừng nói chuyện lăng nhăng này nữa. Hôm nay anh đến thăm em như vậy chưa đủ saỏ Anh gặp em chút rồi anh đi.
- Anh đi liền sao? Tôi hốt hoảng.
- Ừ! Khuya chút anh đi. Anh có gặp Vĩnh hồi trưa, thấy Vĩnh có vẻ vui lắm.
- Dạ hồi chiều Vĩnh cũng cho em biết anh về, em chờ anh từ chập tối.
- Đừng chờ anh như vậy cưng. Anh cũng không biết nơi nào anh sẽ đi, vùng nào anh sẽ ở và bao lâu.

Tôi yên lặng, cổ họng nghẹn cứng. Mắt tôi cay xé. Tôi cố giữ cho nước mắt đừng chảy ra. Tôi ngước lên trời nhìn vầng trăng, như cố để nước mắt chảy ngược vào, nhưng những giọt lệ vẫn lăn dài xuống ướt hai bên thái dương. Anh đưa tay lên vuốt má tôi, nói:

- Anh xin lỗi đã làm em buồn.

Tôi vẫn không nói được, chúng tôi cùng lặng thinh lắng nghe tiếng đêm trôi qua vội vã. Cuối cùng, anh lên tiếng:

- Tới giờ anh phải đi rồị Em ở laị giữ gìn sức khoẻ
- Dạ, anh đi cẩn trọng, nhớ viết cho em. Tôi gật nhẹ đầu.

Anh ngâm nho nhỏ.

" Tôi xa người như xa nuí sông
Em bên kia suối, bên kia rừng
Em bên kia nắng, bên kia gió
Tôi một dòng sương lên mênh mông

Tôi xa người xa không hờn oán
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
Nhớ ai buồn ngất trên vai aó
Mưa ở đâu về như vết thương ..." *

Anh đứng lên, bước đi. Tướng anh thong dong, bờ vai nghiêng nghiêng dưới ánh trăng nhìn cô đơn lạ. Tôi vẫn không hiểu sao người có tướng nhàn hạ như anh lại thích xông pha trong nguy hiểm.

**********

Tôi ngồi ở hàng ghế cuối, trong góc khuất. Ánh lửa bập bùng chiếu sáng ngời đôi mắt anh. Chung quanh là những khuôn mặt trẻ, đang say sưa nghe anh kể chuyện phương xa. Mặc dù đã biết trước là sẽ gặp anh tại trại hè này, nhưng khi thấy anh, lòng tôi vẫn bồi hồi quá. Đã 4 năm rồi tôi không gặp anh. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe được tin tức về anh qua Vĩnh và vài người bạn. Lâu lâu, tôi lại nhận được vài hàng chữ anh gởi về từ những điạ danh xa xôị Khi thì từ Paris, lúc ở Thuỵ Sĩ, Toronto, có khi lại ở Thái Lan, Campuchia hoặc những nơi tôi chưa hề nghe tới.

Hai ngày trước đám cưới cuả Vĩnh và tôi, tôi nhận được tấm thiệp anh vẽ chân dung cuả tôi và lời chúc. Kèm theo một bài thơ nhỏ:

" Ngày vui em nhỏ khăn voan trắng
Anh nằm gối đá bạn cùng sương
Muốn về bên em chia chung rượu
Nặng gánh hải hồ khó buông tay
Thì thôi anh gởi em chút nhớ
Cùng lời nguyện chúc hạnh phúc đầy"

Anh đứng đó, khuôn mặt mơ mộng, mắt sáng cương quyết. Anh nói về những kỳ vọng, những khó khắn cuả những người đang nuôi một hoài bão về đất mẹ Việt Nam. Anh bước tới với cây đàn, dạo và cất giọng ngâm:

" Đại trượng phu không hay, hề, xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương
Trời Nam ngàn dặm thẳm
Bể Bắc một mầu sương
Chí chửa thành, danh chửa đạt
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương?

Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang, ai người tri kỷ
Lại đây, hề, cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường! Hồ trường!
Ta biết rót về đâủ
Rót về đông phương
Nước bể đông chẩy siết sinh cuồng loạn
Rót về tây phương
Mưa tây sơn từng trận chứa chan
Rót về bắc phương
Ngọn bắc phong vi vút đá chạy cát giương
Rót về nam phương
Trời nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng

Ha haha ..... hahahạ....

Nào ai tỉnh, nào ai say
Chí ta ta biết, hề, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp như hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây" **

Giọng ngâm cuả anh vang dội cả khu rừng tối, có tiếng gió lay những hàng cây như phụ hoạ theo tình cảm gởi gấm cuả anh. Tôi rùng mình, có ngọn gió lạnh mơn trớn tim tôị Tôi nhìn anh, anh đứng đó thật gần mà sao tôi thấy anh xa xôi quá.

Buông đàn, anh bước về phiá tôi, ngồi xuống cạnh tôị Quay sang tôi anh mỉm cười, ánh mắt trêu ghẹo rồi đưa tay bẹo má tôi.

- Giời ạ, em lấy chồng mà lại đẹp thêm ra thế này, cô nhỏ. Vĩnh đâu mà để em ngồi một mình thế này? Không sợ anh bắt cóc à?
- Vĩnh không bao giờ sợ anh bắt cóc em .... vì anh sẽ chả bao giờ muốn bắt em. Tôi cười trêu anh.
- Đừng quá tin tưởng như thế cô nhỏ.
- Anh ở lại lâu không?
- Không em. Sắp có người tới đón anh rồi.
- Vậy là anh không ghé em chơi sao? Tôi phụng phiụ.
- Cho anh hẹn khi khác em nhé.

Tôi lại muốn khóc, khốn khổ tôi, nước mắt chi mà chỉ chực chờ tuôn rạ Anh nhìn tôi thăm thẳm, ánh mắt anh làm đau tim tôị Anh cầm tay tôi, xoay xoay cái nhẫn cướị Tôi thấy anh thở dài thật nhẹ. Chung quanh chúng tôi mọi người vẫn vui chơi nói cười, nhưng nơi tôi ngồi, tất cả đều mờ nhạt, lãng đãng.

Có chiếc xe tiến vào khuôn viên trại, dùng lại xa xạ Tôi hỏi anh:

- Người đến đón anh?

Anh gật đầu.

- Để anh ngâm tặng em bài thơ rồi anh đi nhé. Rồi anh ngâm khẽ:

" Tình đôi khi là tôi
Lạnh thầm trên gối chăn
Không ai ngoài chiếc bóng
Dỗ dành ta ăn năn

Tình đôi khi thoáng chốc
Mà ngậm nguì trăm năm
Em đã từng đâu đó
Anh mãi còn long đong ..." ***

Tôi nhìn theo chiế xe rời xa dần, đưa tay lau nước mắt. Tôi cố theo dõi tiếp chương trình lửa trại mà đâù óc cứ dõi theo anh......202




Trong buổi tiệc, có người tự khoe rằng mình rất sành chuyện kiếm hiệp bên Tàu, kể rằng:

Đêm kia, một vị quái hiệp đứng trên nóc nhà thình lình bị một kẻ lén đập cây gậy sắt trên đầu. Cây gậy tròn bằng bắp chân chạm phải đầu quái hiệp, gãy làm đôi. Khúc gậy bị gãy nặng đến nỗi rớt xuống thủng mái ngói, rơi trúng một người đang ngủ gãy giò. Thế mà quái hiệp không biết rằng mình vừa bị đánh, ghê chưa?

Kể xong, người ấy hỏi:

Các bạn có biết vị cao thủ võ lâm ấy là ai không?

Tức thì có người đáp:

Là tía của thằng đặt chuyện đó chứ ai!


2796













Nhà cậu Tư Nhớ cũng ở đó, xiêu xiêu giữa vườn thuốc Nam, quanh năm nồng nàn hương hoa cỏ. Nhưng cậu không có nhà, cậu đang dự đám tang trên Lung Dừa. Cậu “đuổi quỷ” trong đội đạo tỳ của Chữ thập đỏ xã. Gần mười lăm năm cầm đuốc múa quanh quan tài đến chai tay, lửa phà nám mặt, mấy lần ngậm dầu phun lửa bị sặc trối chết, càng lớn tuổi cậu càng tưng tửng, ai cũng nói, ổng bị sặc dầu quá trời đất như vậy mà không mát dây cũng uổng. Cậu nghèo, nhưng đèo bồng nuôi một thằng nhỏ mồ côi cha mẹ. Bình thường thì thằng Lụm kêu bằng tía, nhưng có lúc, kêu vậy cậu la thấu trời: "Mầy làm như tao già lắm vậy, kêu tao bằng anh đi, bằng thằng cũng được nữa”. Một tháng ăn cơm nhà chừng ba bữa, còn hai mươi bảy bữa cậu dọn vườn, chặt thuốc cho chùa nên được đãi cơm chay. Hết việc, cậu dắt thằng con lang thang làm mướn dài dài theo xóm, ăn cơm ở đó luôn. Đội đạo tỳ có việc thì hai cha con dùng cỗ đám tang, lắm lúc cậu về nhà biểu thằng Lụm: "Đổ nước mắm vô kho quẹt ăn. Tao ngán thịt heo thấu trời rồi”.

Chỉ nhà dì Út Thu Lý là cậu không bao giờ lui tới. Hồi bà Hai má dì còn sống, ra đường chạm mặt, tránh không được, cậu mới mở miệng, giọng có một chút hằn học, một chút chua xót, một chút mỉa mai: “Thưa má!”, rồi cậu cun cút đi thẳng. Những chiều ngang qua nhà, thấy bà Hai bắc cái ghế ngồi ngoài hàng ba là cậu cởi quần dài, tụt xuống mé kinh, lội qua khỏi đoạn đó mới ngoi ngóp lên bờ. Đám trẻ trong nhà thấy cảnh đó cười ngắt nghẻo, chỉ dì Út Thu Lý là chua xót ngẩn ngơ, người coi tưng tưng vậy mà giận dai ghê hen. Rồi dì tự hỏi, nếu mình là anh ấy, thì mình có giận không?

Giận. Bởi gió kia, mưa kia, những mái nhà chiều chiều khói tỏa kia, người phụ nữ đang na cái bụng bầu lặc lìa qua ngõ kia, và những đứa trẻ kia, cả thằng Lụm… hết thảy đều làm cho người đàn ông đó nhớ một mái ấm đã bị tước đoạt của mình. Bởi nếu con cậu còn sống, bây giờ chắc nó cao hơn thằng Lụm. Những khi ngồi nhớ lại, cậu ứa nước mắt, ước gì mình được nhìn thấy nó một lần, một lần thôi, sau này có sặc dầu hay chết hụt dưới mương, có lẫn lộn việc này việc khác, dứt khoát cậu sẽ không quên hình bóng vợ con mình.

Nhưng cả mơ ước đó cũng bị má vợ cậu, bà Hai cướp đi mất. Khi dì Ba Thu Lê để lòng thương cậu Tư Nhớ, roi đòn mấy cũng không cản được, bà đã nghiến răng trèo trẹo khi nhắc tới cậu, "thằng ăn cướp". Sinh cả thảy cả sáu người con chỉ có hai đứa con gái: dì Út Thu Lý vụng về, đểnh đoảng như trẻ con, vui buồn ra mặt; bà Hai dồn hết tình thương cho con gái Thu Lê vén khéo, nhu mì. Hồi đó, dì Ba mới hai mươi tuổi, trong lòng người mẹ, dì còn non nớt, dại khờ. Ai mà ngờ một bữa dì bỏ bà đi… Nhà cậu Nhớ cách nhà bà một quãng đường xóm, những bữa đi ngang qua nhà, bà Hai nghe giận nhói ngực khi thấy con gái mình khép nép đi cạnh chồng. Cái nhìn van lơn và hối lỗi của cậu Tư Nhớ nhỏ nhoi trước biển lửa giận hờn trong trái tim người mẹ. Không bảo nhau nhưng cả hai người đều hy vọng, dù lâu lâu lắm nhưng sẽ có một ngày bà tha thứ.

Hồi đó, gia tài của hai người chỉ có căn nhà dựng trong vườn chùa với chiếc xuồng. Dì Ba hay cười, an ủi: "Anh buồn gì, xóm mình đâu chỉ nhà mình nghèo…". Dì làm bánh bò, sáng sớm hai vợ chồng chèo bán dọc theo các xóm ven đầm, buổi chiều họ xin rơm chở về gieo cải, trồng rau trên liếp nhỏ kế bên nhà. Dạo đó, người ta dồn về nơi này để theo những con rạch ngoắt ngoéo ra cửa sông Thầy Xúi vượt biển tìm đất hứa. Nhiều bữa thấy người ta lỡ đường, vơ vất ngoài bờ bụi, khổ sở với bầy muỗi lá, cậu Tư cho quá giang, cho ngủ lại, san sẻ ít chén cơm nguội. Cậu với dì không hỏi họ đi đâu, làm gì, hỏi họ cũng không nói thiệt, chỉ nghĩ trong bụng, xứ sở mình ở đây mà hổng ở, đi làm chi cho cực thân vậy không biết. Cho tới một bữa trên đường chở rơm về, cậu bị công an xã bắt vì tội đưa người vượt biên. Cậu Tư Nhớ có kêu oan nhưng các anh công an cười, hỏi bà già vợ thưa mà còn oan ức gì? Cậu nghẹn lời, ngỡ ngàng và đau xót.

Lúc đó là tháng năm, đôi vợ chồng trẻ đang nôn nao đếm ngược từng ngày chờ đến sang giêng sẽ đón đứa con ra đời…

Bốn mươi ba ngày sau cậu Tư được minh oan. Lúc về thì cỏ đã mọc xanh lối vào. Giồng cải bên nhà trổ bông, ngồng cao tới ngực. Lúc về, chuột cắn rơm làm ổ trong cái cà ràng trên bếp. Lúc về, người cũ không còn ở chỗ cũ, nhà lạnh ngắt, buồn xo. Cậu Tư Nhớ uất quá vác cây mác chạy tới nhà bà Hai đòi người. Bà đứng chận ở cửa, mặt thản nhiên, lạnh tanh như đồng, bảo “Ở đây không có gì liên quan tới cậu. Con tôi nó ra chợ ở rồi, còn con cậu hả? Ra bãi rác ngoài trạm xá xã mà kiếm". Cậu Tư Nhớ hoài, nhớ đời đời kiếp kiếp cái vẻ mặt chai đá của bà Hai, cậu cười, sao con người đối với nhau có thể cạn ráo đến vậy.

Cho đến bây giờ dì Thu Lý vẫn còn nhớ giọng cười của cậu hôm ấy, nó lạt nhách, không dư âm, như thể đá cười. Cho đến bây giờ, gặp dì, cậu vẫn hay cười như thế, có lúc cậu còn làm ngơ không thèm nói chuyện. Nhưng dì không giận, vì nghĩ nhà mình nợ anh ấy rất nhiều, cho tới khi má dì nằm xuống, món nợ ấy vẫn còn nguyên.

Người ở xóm Rạch Ruộng ai cũng biết dì Út Thu Lý thương cậu Tư, họ dạy con nít ngạo chơi "Trồng tre trở gốc lên trời. Con chị qua đời rồi tới con em". Nghĩ cho nghiêm túc, hai người này cũng thật xứng đôi vừa lứa. Ngày nào dì Út cũng đi làm công ở chùa Phấn, hốt thuốc tiếp sư cô, lúc rảnh chạy qua nhà cậu Tư Nhớ quét cái nhà, lau bộ ván, cho chó mèo ăn. Dì coi nhà cậu như nhà mình, nên quen cái lối đi hẹp giữa bộ ván ngựa cũ kỹ và chiếc giường, quen với căn bếp nằm chếch phía trái, đó là một góc tù mù khói, nhưng đó là một chỗ ấm áp nhất. Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích.

Bây giờ gần hai mươi năm rồi, tóc đã trắng những sợi già, chuyện tình đó vẫn chưa đi tới đâu. Chiều nay lại, thay vì lòn tay qua lỗ mở cái móc khóa quen thuộc ra, dì Thu Lý tự nhiên giữ lễ, đứng chờ ngoài cửa. Thằng Lụm về trước, thấy dì, nó cười, hỏi: "Ủa, sao Út không vô?". Dì bảo: "Vô gì, nhà người ta mà". Thằng Lụm nhìn dì lom lom, nó thấy dì bữa nay lạ quá, không biết có phải tại rụng mấy cái răng không. Nhưng lúc đó đã nghe tiếng đá banh dội binh binh đằng xóm, nó rảnh đâu mà thắc mắc, vọt đi mất. Cậu Tư Nhớ qua khỏi lùm nhãn lồng, làm như không thấy dì Thu Lý, vạch cái cửa đi tuốt vô nhà. Cậu ra ngoài giàn ôm củi vô, rồi chổng mông thổi lửa nấu cơm nước, khuôn mặt cậu tỉnh rụi. Nước sôi, cậu đi rửa cái bình mẻ vòi, châm trà. Cậu chống rèm cửa sau lên, lau bộ ván ngựa đầy dấu chân gà, quét cái nhà vương vãi rác rồi ngồi uống trà. Cái vạt áo màu bông cà của dì Thu Lý vẫn phơ phất bên ngoài cửa. Muỗi kêu o e xà quần bên lỗ tai, giờ này muỗi bắt đầu bay khỏi đám lá đi kiếm hơi người. Ngoài sân chắc muỗi cũng nhiều… Cậu Tư hơi trù trừ giây lát rồi đứng lên, ra cửa trước nói trổng không:

- Sao bữa nay mắc gì mà không vô nhà? Ngoài này muỗi cắn chết.

Dì thở ra, cứ tưởng là thằng chả không mời. Dì cố nén cười, nghiêm mặt bước vào, đứng lừng khừng khách sáo như khách lạ. Cậu Tư coi bộ hơi bực:

- Sao không ngồi đi? Coi chừng làm nhăn bộ ván tui nghen.

Nói rồi, cậu đi gom mớ vỏ dừa khô vô nhen mẻ ung. Cậu ngồi thổi hoài cho đến khi lửa bùng lên, cậu lại vùi cho tắt. Rồi hì hụi chỗ này, hì hụi chỗ kia, không làm gì cũng lăng xăng. Sực nhớ ra, cậu lại đằng chái bếp lấy khúc ổi vừa được phơi dốt nắng, ngồi đẽo ngỏng cối, ngày mai, đằng nhà Tư Biểu có đám giỗ, thể nào cũng xài. Cậu sợ rảnh tay rồi phải mở lời nói với nhau. Mà cậu thì không biết nói gì hết, không muốn nói gì hết.

Bởi mỗi khi gặp nhau, lòng người này chỉ toàn những oán giận, những nỗi đau, còn người kia tràn đầy niềm yêu thương vô vọng mà họ đã không còn ở tuổi hai mươi, ba mươi để nói ra tâm trạng ấy bằng lời. Nên chiều nay lặng lẽ lạ thường, có thể nghe rõ ràng tiếng muỗi kêu, tiếng xì xì mọng nước của thanh củi ướt cháy trong mẻ, tiếng lưỡi mác vót khứa ngọt vào cây ổi, tiếng trái dừa chuột khoét rụng đùng xuống hào ranh… Dì Thu Lý lên tiếng:

- Anh Tư à… bữa nay em mới nhổ ba cái răng.
- …
- Tính luôn hôm rảy là bảy cái rồi đó. Thấy vậy mà già rồi…

Cậu Tư Nhớ vẫn nín thinh, hì hụi gọt đẽo, thấy mình cũng thật nhẫn tâm. Kinh kệ mỗi ngày từ chùa Phấn vọng sang cùng tấm lòng chân thật của dì Út vẫn không làm cậu nguôi đi oán hận. Cậu mà đáp tình dì chẳng phải là đã tha thứ cho nhà đó sao; ngu sao, đâu có dễ vậy.

Dì Thu Lý ngồi trên tấm ván đã cong vênh, nghe lòng trống không đã sạch sành sanh những niềm hy vọng cuối. Không biết làm sao cho hết bối rối, dì ngó quanh quất cho giống người xa lạ chơi. Dì nhìn chiếc quai nón bằng vải nhung đã phai màu treo ở đầu giường, cái áo bà ba màu bông cà bọc trong bọc ni lông treo trên vách cùng với chiếc cặp đỏ bằng nỉ (hôm chị Thu Lê theo chồng, nó chỉ đủ để ba bộ đồ với cái khăn tắm, dì Út lén má xếp giùm). Dì nói bằng một tiếng nhói:

- Anh nhớ chị Ba em?

Lần này cậu Tư Nhớ đổ quạu, vặc lại:

- Bộ tui trâu bò sao mà không biết nhớ? Biết còn hỏi!

Ờ, thì biết. Hơn hai mươi năm rồi cậu Tư với dì Thu Lê đã không gặp lại nhau. Mỗi bận lễ Tết, hay đằng nhà bà Hai tổ chức giỗ ông Hai, cậu đứng xa xa dòm ngó, nghe nhộn nhạo từng khúc ruột. Hổng biết cổ có về không ta? Thằng Lụm hiểu lòng cậu, nó chạy đi coi, nó kể ở ngoài chợ người ta về đầy nhóc, người nào người nấy đẹp đẹp không hà, tía. Nhưng trong đám người đẹp đó không có người cậu thương, dì Ba không về, dì viết thơ gởi bà Hai (lá thơ đó nhòe nước mắt) thưa rằng chắc chẳng bao giờ dì về quê nữa, quay lại đó, rồi làm sao, mặt mũi nào để gặp một người. Dì viết rằng, má ơi má đừng buồn, chừng nào nhắm mắt xuôi tay, con sẽ về để nằm trên đất nhà mình.

Câu chuyện đó dì Thu Lý kể cho cậu Tư Nhớ nghe vào một ngày mưa gió, cậu đội áo mưa lại chữ thập đỏ xã, xin được giữ một chân đạo tỳ trong đội mai táng. Ai cũng hỏi sao tự nhiên đi làm cái nghề u ám vầy, cậu cười không nói. Chỉ có một người biết, càng biết nhiều càng nghe lòng buồn nhiều.

Dì Ba Thu Lê bây giờ đã theo chồng sống ở nước ngoài, vò võ không con, dì cay đắng, "trời phạt vậy". Dì hay gởi thư, tiền và hình về nhà. Trong hình lúc nào cũng đeo nhiều đồ trang sức, mập mạp, đầy đặn, cười thật nhiều nhưng đôi mắt lại buồn thiu, luôn luôn ngó thẳng về phía trước mà ánh nhìn không có một chỗ vịn nào. Một người sống không quê hương, sống đầy mặc cảm, dằn vặt, sống mà đau đáu hoài chuyện cũ thì biết níu đâu bây giờ?

Chiều nay ngồi trong nhà cậu Tư Nhớ, dì Út lại nhớ chị mình. Dì chợt nghe lòng quang quẻ lạ lùng, sao mình không giúp cho anh chị ấy gặp lại nhau một lần, bây giờ không làm, đợi tới chừng nào. Mình làm được mà, thí dụ như mình giả đò chết. Chị Ba Thu Lê nhất định sẽ về, sẽ gặp lại anh Tư Nhớ, dù bây giờ tóc xanh phai màu, gặp chơi vậy thôi chứ không thay đổi được gì hết. Nhưng thương nhớ nhau thì hội ngộ lúc còn đang sống, chứ đợi người âm kẻ dương làm chi… Đời vốn dĩ đâu có buồn dữ vậy.

Dì Út Thu Lý ngồi ở đó tới chạng vạng, không nói thêm gì nữa, chỉ đau đáu ngắm cậu Tư, lòng tràn đầy thương yêu. Lúc về, dì mới lại gần, dạn dĩ gỡ cây mác vót trong tay cậu ra, nắm ngay lấy bàn tay nóng rực ấy, định cười, nhưng nhớ mấy cái răng cửa vừa nhổ nên thôi. Rồi dì bảo: "Mai mốt chế ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này…"

Khi qua cửa dì Út Thu Lý mới hay, con mắt rửa bằng khói đã nhòe nước.

Rồi những cơn gió tháng bảy đưa tin vui đến từng mái nhà trong xóm Rạch Chùa. Người ta bần thần, vậy a? Xa xứ biết bao lâu rồi, trôi dạt tận nước ngoài, cuối cùng người con gái đó cũng về thăm lại xóm Rạch. Cậu Tư cuống quýt hỏi thằng Lụm, có đúng cổ không, mậy? Đúng hả, về rồi hả, về một mình hả? Vậy a? Trời ơi! Gió thổi bời bời vào căn chòi của cậu Tư Nhớ, thốc cuộn những tàn tro xát vào những vết cắt trong lòng.

Dì Thu Lý chỉ còn làm được một chút đó cho Tư Nhớ để trả cho cậu món nợ nhà dì đã vay, để cậu gặp lại người xưa. Nhưng cậu đã phụ lòng, khi dì Ba Thu Lê về, tận mặt nhau, cậu lắc đầu, cười, khẳng khái "Em Lê đâu có già, đâu có mập ú ù u như vầy". Cả ba người quay lưng lại với nhau, bưng mặt khóc, thương cho tuổi thanh xuân đã qua mất rồi.

1478


Powered by Blogger.