Gia đình một nhà tạo giống nọ thích ăn món đùi gà tây trong bữa tối nhưng không bao giờ có đủ cho mỗi người một chiếc. Bực mình vì cảnh lũ con tranh ăn, ông lao vào nghiên cứu để lai tạo ra một giống gà đặc biệt.
Sau nhiều nỗ lực bất thành, một hôm, ông công bố phát minh vĩ đại của mình trước toàn giới khoa học rằng ông đã tạo ra được giống gà tây có 6 chân.
- Thế mùi vị của loại thịt gà ấy như thế nào? - Cử tọa hỏi.
- Tôi không biết! – Nhà khoa học đáp – Tôi chả bao giờ đuổi kịp nó cả.
1955
Gia đình kia có cô con gái xinh đẹp, muốn kén chàng rể có tính tiết kiệm. Nhiều chàng trai trong vùng đến nhưng không ai được ông bố vợ hài lòng. Gặp ai ông cũng lắc đầu. Một hôm có một chàng trai hớt hơ hớt hải đến, chẳng thèm chào ai, quăng ịch chiếc xe ở sân rồi chạy vội ra vườn quay lưng vào mọi người và vén quần lên...
Ông bố vợ cau mặt bảo:
Anh đến xin làm rể mà thô lỗ như thế, làm sao chấp nhận được!
Chàng trai chắp tay:
Thưa bác, tôi biết là không nên làm thế, nhưng tức bụng quá, không chịu được.
Thế sao trên đường đi, không dừng lại ít phút để giải quyết?
Thưa bác, thế thì phí quá!
Anh sợ mất thời gian à?
Dạ không. Tôi sợ phí cái khác cơ. Chả là bác có vườn rau, mà nước tưới vẫn phải mua, nên ta tiết kiệm được tý nào đỡ tý ấy ạ.
Ông bố vợ "Aø!" lên một tiếng, mặt rạng rỡ hẳn lên, vì ông vừa phát hiện ra được một người xứng đáng là rể nhà mình.
Đến ngày hôn lễ, nhà gái yêu cầu nhà trai tiết kiệm, chỉ cần ra Uỷ ban đăng ký và cô dâu chú rể chụp một kiểu ảnh kỷ niệm là xong. Khi anh thợ ảnh tới, chú rể gọi iù ới tất cả mọi người, từ gia đình nhà trai đến gia đình nhà gái, từ già trẻ lớn bé, thậm chí anh ta còn gọi cả người đi đường vào đứng chụp. Anh thợ ảnh thấy vậy nhăn mặt:
Tôi muốn chụp riêng cho anh chị một kiểu như thế mới có ý nghĩa, sao anh lại gọi tùm lum thế?
Chú rể bảo:
Khuôn khổ một bức ảnh có thể chứa được nhiều người mà lại chỉ ghi hình của hai người thôi lãng phí quá!
Nghe thấy vậy ông bố vợ càng tin mình sáng suốt lựa chọn được chàng rể xứng đáng.
2883
Thuở mới kiến tạo, lộ Lâm Quang Ky giống như một con đê chạy dài theo bờ biển ấp Vĩnh Lạc, Rạch Giá. Ngày ấy, trên bãi sình lầy hoang vắng chỉ có rừng mắm chằng chịt. Nhưng biển cứ cần cù mang phù sa tô bồi mãi, nên chẳng bao lâu, những căn nhà xinh xắn đã xuất hiện trên mặt tiền đường, rồi từ từ lấn sâu thêm mãi. Khi tình hình an ninh ở miền quê trở nên tồi tệ, dân chúng đổ xô ra tỉnh nhà ở thật khan hiếm. Nhu cầu cấp bách không thể chờ đợi đất bồi " cà rịch cà tang" nên có người nghĩ đến giải pháp cất nhà sàn. Thế rồi, với chiếc cầu ván hẹp té xử dụng như đường đi độc đạo vào đất liền, những chiếc nhà sàn thô sơ san sát quây quần bên nhau. Cầu được chấp nối mãi nên dài nhằn, nhưng càng lúc càng teo dần. Khoảng bắt ngang những căn cuối cùng, cầu ốm nhom với miếng ván long đinh, vùng vằn theo từng bước chân đi. Cầu riêng vào nhà bé Vân – căn nhà cuối cùng -, thực ra, chỉ là một khúc tre, gát lơ mơ trên hai cặp cừ đóng chéo. Những lần đầu, bước lên cầu tre lắc lư, Vân níu cứng tay mẹ, nhít từng bước, mà run như thằn lằn đứt đuôi. Bây giờ, thì Vân quen thuộc rồi, em đi thoăn thoắt như đi trên đất liền.
" Ví dầu! Cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gặp ghình khó đi"
Gặp ghình khó đi như thế nào, bé Vân vẫn thương lối về, thương con cầu gầy guộc, xóm giềng đìu hiu, và nhất là thương căn nhà tiều tụy, tổ ấm đã chứa chan bao tình yêu thương mật ngọt của mẹ cha.
Chị Năm, mẹ của bé Vân, cũng bằng lòng không kém. Chị thường sung sướng bảo: " Đây mới chính là căn nhà của mình" . Bao năm rồi, chị Năm ôm con theo chồng vất vả di chuyển ngược xuôi với đơn vị. Chị cũng có nhà trong trại gia binh, nhưng đó đâu phải là nhà " của mình" . Huống chi, thời gian đó, chị lúc nào cũng phập phòng lo sợ cho tánh mạng của chồng, nên đâu có phút nào vui. Anh hạ sĩ Năm bị thương rồi bị giải ngũ. Tiền lính thì đã tính liền. Vợ chồng không còn xu ten dính túi, lủi thủi về Rạch Giá tạm nương náu với gia đình bà cô. Thời may, nhờ bè bạn giới thiệu, anh Năm thuê được chiếc xích lô đạp để kiếm sống qua ngày. Nhà bà cô chật chội, anh Năm theo bạn bè đến chùa Phổ Minh, toạ lạc tại góc đường Cô Giang và Lâm Quang Ky, ngủ nhờ. Do đó, anh vô tình khám phá ra được xóm nhà sàn trên bãi biển, mà " xí" phần để cắm dùi.
Anh Năm, tuy thỉnh thoảng cũng mơ về thời quân ngũ hào hùng, nhưng thường thì anh an phận với kiếp sống lam lũ của mình. Dù gân cốt rã rời, mồ hôi nhuể nhại mà mang được tiền về cho vợ quí, con cưng là mãn nguyện lắm rồi. Vả chăng, bé Vân cũng đáng để mà cưng. Em ngoan ngoãn và biết thương yêu cha mẹ, tuy hơi nhỏng nhẻo một chút. Đã 9 tuổi đầu, Vân vẫn thường chui rúc vào lòng mẹ, ỏng a ỏng ẹo, nói đớt nói đát, đòi mẹ ru cho ngủ. Một tay mẹ xoa đầu, tay khác vỗ mông nhè nhẹ, rồi cất tiếng ru à ơ…, ví dầu…, để cho Vân lim dim " măn vú" mẹ mà đi lạc vào giấc ngủ thần tiên. Sáng nào thức dậy, vừa trở mình " ư" một tiếng, thì đã có mẹ bên cạnh, tíu tít nâng niu. Mẹ đỡ dậy, chãi đầu, đánh răng, lau mặt. Đôi khi Vân còn trận thượng, nằm thẳng cẳng để mẹ thay quần áo thì cơn nhỏng nhẻo mới đả nư. Vân mà đau một tí thì phải biết, Vân mặc sức làm tình làm tội mẹ. Vân rên nhè nhẹ để mẹ cuống quít lo âu. Vân vùng vằng không uống thuốc, không ăn cháo… để mẹ ỉ ôi năn nỉ. Có lần mẹ mắng: " Con gái hư quá!" , nhưng Vân biết mẹ mắng yêu thôi. Mẹ chẳng bao giờ nghĩ là con mình hư, mà còn khuyến khích ngầm cho Vân nhỏng nhẻo nữa kia. Thật ra, Vân biết nhỏng nhẻo cũng hư chút chút, nhưng nhỏng nhẻo thích thú lắm, Vân làm sao mà chừa được?
Với cha, dù biết được yêu thương đậm đà, Vân cũng không dám nhỏng nhẻo quá mức. Ba trầm lặng quá, không nựng nịu, ôm hôn Vân chùn chụt như mẹ. Thương lắm, ba vuốt tóc Vân nhè nhẹ, rồi dúi cho con một đồng, để Vân chạy ù ra quán " chệc" Lủ mua bánh lỗ tai heo, bánh men, hay miếng Xoài, trái cóc. Đòi quà, đòi đồ chơi mà òn ỉ với ba thì chắc ăn. Ba không bao giờ từ chối. Mẹ có cằn nhằn ba, thì ba cười dễ dãi: " Tội nó mà mình! Thôi cũng cho con mình nó có với người ta" .
Ba thừơng cho rằng ba là Phật tử lâu năm, - ba đến chùa gởi xe lấy xe hàng ngày cả năm rồi -, nên ba cũng khuyến khích vợ con đi chùa cho có phước. Ba sắm cho mẹ một áo dài, Vân cũng có quần áo mới, để ăn mặc lành lặn khi lễ Phật. Phần ba, ba chỉ độc có quần " xà lỏn" với chiếc áo nhà binh bạc màu, nhưng ba nói ba không cần đồ mới: " Tui vào chùa bằng cửa sau để bửa củi làm công quả, khi gởi xe và lấy xe thì trời đã tâm tối, thì cần gì quần áo lành lặn. Còn đạp xích lô mà bận quần áo tốt, thì thiên hạ chửi cho đó" .
Chính vì thế mà ba không có quần dài để dự lễ quy y. Nhờ thầy chu đáo cho mượn bồ đồ lam ba mới đở lúng túng. Lễ quy y đó ảnh hưởng rất nhiều đến nếp sống của ba. Ba thường nhắc nhở lời thầy dạy về giới cấm uống rượu. Rượu làm cho con người mất tự chủ. Say sưa đâu còn biết đến chánh niệm, rồi thì giới nào cũng phạm đựơc. Những thứ độc chất khác như xì ke, ma tuý, cần xa…, tuy thời Phật tại thế chưa xảy ra để đặt giới luật ngăn cấm, nhưng những thứ này, cũng làm con người mất tự chủ, lạc lỏng chánh niệm, thì cũng phải chừa bỏ như là rượu. Thuốc lá thật ra không nguy hiểm, miễn là đừng để quá ghiền mà lảng quên chánh niệm thời thôi. Ba nói ba không hiểu chánh niệm là cái gì? Nhưng ba là Phật tử thuần thành, ba nghe lời thầy bỏ rượu, bỏ thuốc hút. Vả chăng, ba nói: " Thầy dạy thời giờ uống rượu, hút thuốc… là thời giờ lảng quên hiện tại, mà tui thì tui đâu muốn lảng quân con gái cưng của tui" .
Tiền để dành được, do việc cai rượu và thuốc, ba " cất ca cất củm" mấy tháng trời, rồi đưa hết cho Vân và bảo: " Con đi cúng dường cho có phước" . Biết ba " ăn gian" , muốn dành hết phước cho con, chớ không giữ gì cho ba, Vân bỏ tiền vào thùng phước sương, rồi lâm râm khấn vái: " Phật ơi! Tiền này là của ba con. Xin Phật ban phước cho ba. Kiếp sau ba có nghề nào khá khá một chút, chớ còn đạp xích lô hoài, khổ cực lắm…" .
***
Ngày chúa nhựt, Vân thường lân la đến chùa, len lén nhìn sinh hoạt Gia Đình Phật Tử. Những em bé trạc tuổi Vân, quần áo xinh xắn, ca hát, nhảy múa, nô đùa thật là vui. Vân thèm thuồng quá!
Một chị huynh trưởng, có lẽ thấy Vân mê mang, đờ đẩn, nên ngoắt lại, rồi mời mọc:
Em cưng! Em thích sinh hoạt không? Vào đây chơi vơi chị. Em nhé!
Vân vừa e thẹn, vừa mừng rỡ, rụt rè đến bên chị. Sau buổi sinh hoạt sơ khởi, Vân tung tăng về nhà, reo vang:
Ba ơi! Nghe con hát nè:
" Xin ba má con chừa!
Con không dám vui đùa
Với những kẻ hư thân
Mà ba má hổng có ưa…"
Hay lắm! Hay lắm! – Ba vổ tay – Ai dạy con đó?
Thưa ba chị Diệu Lý, đoàn trưởng Oanh Vũ dạy tụi con đó. Ba cho con gia nhập Oanh Vũ nghe ba?
Tốt lắm!
Chị Diệu Lý nói con phải có đồng phục Oanh Vũ thì mới sinh hoạt được.
Má lên tiếng – bồ đồ đầm đó mắc lắm! Thôi tham gia Phật tử Phật tôn làm gì?
Chị Diệu Lý nói đồng phục rẻ rề hà! – Vân năn nỉ –
Rẻ với người ta kìa. Còn mình nghèo thì sắm sao cho nỗi?
Thôi mà mình! – Ba ôn tồn – Tội nghiệp cho con! Nghèo thì cũng rán cho con có đồng phục như con người ta!"
Thời gian Oanh Vũ quả là thời gian thần tiên. Vân được các anh chị huynh trưởng thương yêu, chăm sóc, vừa được dạy dỗ giáo lý, vừa được hướng dẫn vui chơi. Anh chị lại hy sinh chăm sóc cả việc học hành, thi cử của các em. Nhờ thế, vừa học xong tiểu học năm 12 tuổi, Vân đã đỗ ngay vào trung học Nguyễn Trung Trực dễ dàng. Nỗi mừng của ba thật bất tận. Ba khen, ba thưởng Vân đủ thứ. Tuy còn lâu mới tụ trường, ba đã mua sắm đầy đủ cho con: quần áo nữ sinh đồng phục, giầy dép, tập vở, bút mực…
Vân lại được huynh trưởng cho chuyển lên ngành thiếu. Dĩ nhiên, ngành thiếu hấp dẫn vô cùng, Oanh Vũ nào mà lại không ước mơ.
Ba ơi! Ba ơi! Con được chuyển lên ngành thiếu rồi! – Tiếng của Vân mừng rơn làm ba vui lây. Ba phụ họa:
Con ba giỏi quá!
Thật ra, đủ tuổi thì chuyển ngành chớ con ba có giỏi gì đâu, nhưng Vân không đính chánh. Em sẽ gần ba ỏng ẹo:
Mờ! Con cần có áo dài đồng phục của ngành thiếu. Ba à!
Chuyện ấy dễ mà!
Bỗng nhiên Vân nhìn ba. Mấy thuở mà Vân có dịp nhìn ba thật kỷ đâu. Vân thấy ba độ rày đen và gầy gò quá. Thỉnh thoảng ba lại ho nũa. Vân thương quá, không muốn " vòi vỉnh" ba điều gì hết.
Mà thôi ba à! Chầm chậm lúc nào cũng được. Con mặc đồng phục Oanh Vũ đỡ vậy!
Tầm bậy! Con lớn rồi. Phải có áo dài chớ con!
Tuần sau, khi Vân hí hửng đến nhà chị thợ may trong xóm lấy áo lam về, thì thấy mẹ vừa tiễn anh Minh Tâm, Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử ra khỏi nhà. Mắt mẹ buồn hiu làm Vân cụt hứng không khoe được áo dài mới. Vân lại thắc mắc không biết đã có lầm lỗi điều gì, để anh Minh Tâm đến gặp mẹ trách móc không? Vân lăn xăn hỏi mẹ nhưng mẹ chỉ lắc đầu. Vân không hiểu biến cố nào đã khiến mẹ như kẻ mất hồn, mắt đăm đăm nhìn về biển khơi xa xôi mà nước mắt rưng rưng.
Tối đến, ba về nhà – Ba về trễ, thường thì Vân đã ngủ say, nhưng hôm đó băn khoăn về ưu tư của mẹ nên còn trằn trọc -, có lẽ ba khám phá ngay sự khác lạ của mẹ:
Má nó có gì buồn vậy?
Im lặng.
Tui có làm điều gì bậy đâu? Sao má nó lại khóc? – Ba lo lắng bồn chồn-
Mấy tuần nay Ông mang về mấy lần 500 đồng. Tiền ở đâu mà có như vậy?
Tưởng chuyện gì! Tui nhận mối tháng rồi người ta trả trước vậy thôi! Tui có trộm cắp của ai mà má nó quính quáng vậy?
Tui hổng tin
Tui thề đó!
Đừng có thề ẩu! Tiền đó là tiền bán máu. Hồi chiều Bác sĩ Minh Tâm – anh Minh Tâm thật ra là cán sự y tế – ghé ch tui biết sự thật hết trơn rồi.
Máu dư thì cho bớt chớ có nhằm nhò gì!
Nhằm lắm chớ. Bác sĩ nói lâu lâu cho máu một lần thì được, chớ bán máu hà rầm như Ông thì chết sớm. Mà! Tui không biết tại sao Ông làm như vậy chớ?
Thì tui cũng muốn má con bà, cũng có cái này, cái kia như vợ con người ta.
Tui hổng chịu! Tui hổng cho ông bán máu. Thiếu tiền thì rán tiện tặn, chớ tui nói thiệt. Nếu ông bán máu một lần nữa, thì tui cho con Vân nghỉ học, để hai má con tui đi ở đợ cho người ta…
Nói tầm bậy.
Ba chồm dậy la lớn. Rồi im lặng hồi lâu, mà vẫn nghe tiếng mẹ khóc thút thít, ba nhỏ giọng gượng gạo:
Mà tui không bán máu nữa. Tiền tui đạp xích lô cũng dư sức nuôi hai mẹ con bà mà…
Vân nằm yên, xoay mặt vào vách, nước mắt ràn rụa, mà vẫn gắng dằn để khỏi bật thành tiếng nức nở, vì Vân nghĩ, nếu ba biết Vân nghe rõ mọi chuyện, ba sẽ khổ hơn nhiều.
Nhưng hàng năm, chùa Phổ Minh tổ chức lễ Vu Lan thật long trọng. Với chủ đề " Một bông hồng cho mẹ" , bài thuyết pháp của thầy thật hay, thật cảm động, làmcho nhiều người rơi nước mắt. Vân sung sướng đón cánh hoa hồng màu đỏ sẽ gắn lên ngực em. Em hãnh diện còn mẹ và được sống trong tình thương của mẹ. Bất ngờ, chị Diệu Lý vụng về đâm cây ghim vào ngón tay Vân. Vân đau nhói, khẻ kêu " ui da" . Một giọt máu điểm trên chiếc áo dài lam làm Vân rùng mình, rởn óc. Vân chợt nhớ đến ba. Em tự hỏi ba đã đổ bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu mồ hôi cho chiếc áo lam này, cho cuộc đời của em. Nước mắt Vân long tròng, làm cho chị Diệu Lý luống cuống, xuýt xoa xin lỗi.
Chị! Em không đau đâu! Em khóc vì nhớ ba thôi!
Vân ấp úng rồi lẩn tránh ra cổng. Tình cờ, Vân thấy ba đứng bên cạnh chiếc xích lô gần đó. Ba chực hờ rước khách, vừa ngóng nghe thời pháp.
Ba ơi! Con đã có bông hồng cho má. Con muốn có một bông gì tượng trưng cho ba nữa!
Bông tượng trưng cho ba thì… ơ, ơ, bông bậy bạ gì chả được. Để ba tìm cho con.
Ba đến bồn bông trước cổng chùa, vừa định hái đóa bông " Tí Ngọ" thì dừng lại, - có lẽ ba thấy bông tí ngọ tức bông mười giờ, chưa tối đã khép ngủ, sáng bét mới chịu nở ra, thật là nhàn nhã không hợp với ba – ba ngắt một cánh bông dừa màu đỏ, bông bình dị, dãi dầu mưa nắng như cuộc đời của ba. Vân sung sướng đón bông dừa, trang trọng cài lên áo. Nhìn ba rồi nhìn cánh bông dừa mong manh, tự nhiên Vân cảm thấy sợ hãi bang quơ. Ba vô tình không biết, lên tiếng:
Thầy thuyết pháp về tình mẹ hay quá! Nghe lời thầy, con hãy về nhìn má con, rồi nói là con thương má thật nhiều….
Dạ! Con sẽ nói với má như vậy.
Rồi, Vân lặng yên nhìn ba thật kỷ, cảm thấy thương yêu dâng tràn. Em nhỏ nhẹ:
Ba ơi! Con muốn nói với ba điều này!
Gì đó con!
Ba có biết rằng con hãnh diện la con của ba, và con rất thương ba không?
Rồi Vân ôm chằm ba và khóc như mưa. Ba cũng ôm Vân và ba cũng khóc. Những giọt nước mắt thương yêu của ba đã nhỏ ấm trên bờ vai của em.
Lần lần, Vân hiểu Vu Lan là mùa báo hiếu cho cha và mẹ. Sau này, dù vị trí của người cha có bị ban tổ chức đại lễ lãng quên hay làm lu mờ, thì Vân vẫn nhớ đến cha. Em âm thâm cài cho em một bông dừa đỏ, bên cạnh bông hồng. Em hãnh diện về tình yêu thương của cha lẫn mẹ đã dành cho em.
***
Biến cố thương đau năm 1975 làm đảo lộn nếp sống bình thường. Thầy Phổ Minh bị kiểm soát gắt gao, rồi bỗng nhiên mất tích. Anh Liên Đoàn Trưởng Minh Tâm đi học tập, rồi Gia Đình Phật tử tự đình chỉ sinh hoạ. Nhiều gia đình bè bạn đã tan nát thương đau. Giới xích lô nhất thời sinh sống được, nhưng cũng kiệt quệ dần. Qua năm sau, thì ba thất nghiệp, vì chủ xe xin lấy xích lô lại để tự nuôi thân. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, thì anh Minh Tâm đi học tập về. Anh ra vốn cho ba đứng tên mua một chiếc tàu một bloc máy để đánh cá ven biển. Hoa lợi sẽ chia đều cho hai gia đình chung sống. Đó là loại tàu nhỏ không vượt biên được nên ít bị công an doom ngó, nhờ vậy, rất tiện để xử dụng như một thứ taxi, nhận người ở đất liền để chuyển giao ra tàu lớn giả dạng đánh cá ngoài khơi. Một tổ chức vược biên móc nối thuê ba với điều kiện tiền bạc hậu hỷ, nhưng ba chọn giải pháp hợp tác miễm phí để đưa vợ con và gia đình anh Minh tâm cùng vượt biên.
Mọi việc đều diễm biến tốt đẹp. Chỉ với bốn ngày hành trình, chiếc tàu 72 người Việt tị nạn đã cặp bean Trengganu, Mã Lai. Sau hai ngày chờ đợi, cả nhóm được di chuyển đến trại tị nạn chánh thức Pulau Besar. Hòn đảo Pulau Besar cách đất liền bằng một con rạch nhỏ, được Phủ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thường xuyên thăm viếng, nên việc quản trị rất thoải mái. Người dư tiền, có thể sang ngay một chỗ cư trú, qua sông đi chợ hàng ngày, hay thuê taxi đến tỉnh;n chơi phung phí thỏa lòng. Kẻ nghèo thì phải chấp nhận vất vả. Khẩu phần ăn tuy được trợ cấp tạm đủ, nhưng chổ ở, nhu cầu cần thiết khác thì phải tự lo liệu lấy. Do đó, để tránh cảnh tạm trú trong hội trường trống trải, anh Minh Tâm và ba, đã tức tốc vào rừng đốn cây, đốn lá để đựng hai cái lều nhỏ, rồi đến giừơng chỏng, bàn ghế thô sơ. Sau đó, ba lại đi làm công dựng nhà cho những kẻ khác, để có tiền sắm sửa vài bộ quần áo thay đổi cùng vài chi tiêu lặt vặt cần thiết khác. Ba làm việc quá cần cù mẹ ngăn cản khuyên lơn ba nghỉ ngơi, thì ba than thở: " Không đạp xích lô, thì tui phải kiếm việc gì làm. Chớ ở không hoài, thì tui buồn không chịu nỗi!"
Có lẽ ba buồn thật, ba thường lang thang một mình, thẩn thờ như kẻ mất hồn, rồi thỉnh thoảng lại chép miệng thở dài: " Không biết đến xứ người, làm sao tui nuôi nổi vợ con đây?" . Chẳng biết có phải vì khí hậu, vì điều kiện vệ sinh hay vì buồn lo hành hạ, mà sức khoẻ của ba ngày càng sa sút. Qua đảo mới 6 tháng, mà ba hom hem già đi hàng mười tuổi. Ba lại ho nữa. Ba ho từng cơn rũ rượi làm đau xoáy cả ruột gan Vân. Năn nỉ ba đi khám bệnh thì ba phản đối. Ba quả quyết ba vẫn khoẻ mạnh. Cho đến một hôm, sau cơn ho dữ dội, ba ộc từng ngụm máu tươi, rồi ngất xỉu. Ba được đưa đến bệnh viện Trengganu điều trị. Bệnh viện cho biết ba bị lao phổi đến thời kỳ thứ ba, nhưng họ chỉ có thể cho nằm bệnh viện 2 tuần, rồi cung cấp thuốc để về đảo tự tịnh dưỡng. Bệnh nặng, mà điều kiện sinh sống ở trại lại khắc nghiệt, cực khổ thì sức khoẻ thật khó lòng khôi phục.
Trại tị nạn ngày càng đông dân số, vì người đi định cư thì ít, mà số vượt biên lại quá nhiều. Khi nhân số của trại tăng lên đến năm ngàn người, thì trại không nhận người mới vì sẽ đóng cửa. Để giải quyết tình trạng đó, chánh quyền Mã Lai khuyến khích các phái đoàn quốc gia đệ tam đến trại phòng vấn và nhận cho định cư hàng loạt. Những gia đình khác vượt biên chung tàu, đều đã được tuyên thệ, nhưng không biết nguyên nhân gì, mà gia đình Vân, một gia đình thương binh thuộc thành phần ưu tiên, thì không phái đoàn nào hỏi han đến. Mới đây, phái đoàn Hoa Kỳ, tuyên bố chấp nhận tất cả những dân tị nạn vượt biên đến trước ngày 31-12-78, nhưng gia đình Vân lại cũng bị bỏ rơi. Vân khiếu nại và chứng minh mình đã đến trước thời điểm đó hằng 6 tháng, thì họ trả lời có lẽ hồ sơ bị thất lạc, nên sẽ cứu xét sau.
Từ lâu, dân trại xầm xì rằng bệnh tình của ba là nguyên nhân để các nước tránh né. Ai mà lại mang con bịnh về để lay cho dân họ. Luận điệu đó ngày càng có người phụ họa, để bàn tán xôn xao. Vân lo ngại điều đó sẽ lọt vài tai ba, khiến ba thêm khổ sở. Nhưng tránh né thế nào cũng có lúc ba nghe. Ba buồn rầu héo hắt. Ba than vắn thở dài " Tui mà chết, chắc vợ con tui mới hết khổ" . Vân bụm miệng ba khóc lóc năn nỉ" : Ba phải sống với con! Ba ơi!" .
Rồi đến lượt gia đình anh Minh Tâm đi định cư. Đưa tiễn anh rời trại, Vân cảm thấy bối rối nôn nao. Em vừa buồn xa một người anh cả bao che, chăm sóc, vừa phân vân cho tương lai vô vọng của mình. Anh Minh Tâm kéo Vân đứng riêng một góc để dặn dò:
Vân à! Em có biết rằng ba em đã thường bán máu để lo cho gia đình không?
Dạ biết! Nhờ anh thông báo nên má em mới ngăn chặn ổng được.
Em lầm rồi! Ba em vẫn tiếp tục không kể đến thân mạng của ông. Nhưng ổng năn nỉ anh dấu diếm dùm, vì nếu không lo được cho vợ con thì ông cũng sẽ tự tử cho rồi!"
Anh Minh Tâm đi rồi mà Vân vẫn còn ngồi khóc một mình. Thương ba vô vàn, mà không có phương cách nào giúp cho ba vơi khổ, giúp cho ba hết bịnh. Gần đây, ba thường dặn dò Vân thương mẹ và lo lắng cho mẹ. Thì ra, ba đã nghĩ đến giải pháp biệt ly. Vân thầm nhủ: " Ba ơi! Con sẽ ở cạnh ba hoài. Không đi định cư một mình đâu?"
Vân có ý định bày tỏ cho ba hiểu rõ lòng mình, nhưng suy nghĩ hoài Vân vẫn thấy khó mở lời. Vân ngần ngại không dám nhắc đến những chữ: bệnh hoạn, định cư, phái đoàn…, mà phản ứng gợi cho ba niềm khổ sầu bất tận. Vì vậy, mà Vân trằn trọc, giất ngủ đến thật chậm và thật nặng nề.
Khi Vân thức giấc thì trời đã sáng. Cảnh trầm lặng của trại, bỗng bị phá tan bởi những tiếng ồn ào, tiếng người chạy rầm rộ. Có tiếng ai la lớn: " Trời ơi! Có người treo cổ trong rừng! Ghê quá!" . Bỗng nhiên Vân linh cảm nạn nhân là ba: em phóng chạy theo những kẻ hiếu kỳ, chạy như điên không kể gì đến gai gốc gạch nát mặt mày, tay chân em. Rõ ràng là ba. Ba treo tòn ten trên nhánh cây, chết thật là thê thảm. Trên ngực ba, ba ghim lá đơn thỉnh nguyện cho vợ con một chỗ dung thân. Tờ giấy phảng phất như một bản án tử hình dành cho kẻ phạm trọng tội: " Tôi thương vợ con" .
***
Không bao lâu thì Vân và mẹ được định cư ở Hoa Kỳ. Phải mất vài năm để ổn định cuộc sống, bây giờ, thì Vân đã trưởng thành, có nghề nghiệp vững chắc, tự tin và yêu đời. Giống như những con chim lẻ bạn, rồi cũng tìm về quây quần bên nhau. Vân bắt đầu thăm dò những tổ chức Gia Đình Phật Tử để về sinh hoạt. Nghiệp trưởng cũng đeo đuổi anh Minh Tâm. Anh đã hao tốn bao tâm huyết để khởi xướng và xây dựng được một Gia Đình Phật Tử hùng mạnh tại một ngôi chùa Việt Nam ở Los Angeles. Nghe tin, Vân vội vã đưa mẹ đến tìm anh. Tình cờ, Vân đã đến chùa đúng vào đại lễ VU LAN. Lễ Vu Lan tổ chúc thật long trọng và thật cảm động, với những biểu ngữ, những bài pháp, những hình ảnh, tô đậm tình mẹ. Vân sung sướng đón nhận bông hồng màu đỏ, sung sướng còn mẹ và được sống trong tình thương bao la của mẹ. Bất chợt Vân nhớ đến người cha bất hạnh, nàng ngậm ngùi ước ao có một đoá bông dừa màu trắng cho người. Vân lặng lẽ đến các bồn hoa trong khuôn viên chùa lục tìm. Nàng chỉ thấy nơi này toàn là những loài hoa quyền quí, cao sang, chớ đâu có các loài hoa bình dị, quê mùa, mộc mạc, nôm na… như bông dừa, như mống tay, sao nhái, mồng gà của xứ mình.
Trong làn nước mắt nhạt nhòa, Vân bỗng thấy bón cha lờ mờ trong bộ y phục phu xích lô cũ kỹ. Nàng thổn thứ lập lại lời đối thoại 7 năm về trước: " Ba ơi! Con muốn có một bông gì tượng trưng cho ba đó" . Ba nàng cúi xuống, ngắt một cánh bông dừa màu trắng trao cho nàng. Đoá bông mảnh khảnh mong manh quá, nàng chưa kịp cài lên áo, thì đã vỡ tan theo ảo ảnh cha nàng
ở một làng nọ, có một đôi trai gái thầm yêu trộm nhớ nhau, nhưng chưa dám ngỏ lời. Anh con trai vốn tính nhút nhát và rất ít nối. Cả một thời gian dài cô gái cứ chờ mãi bạn trai của mình vẫn chưa tỏ tình, mặc dù qua ánh mắt của anh, cô dã hiểu cả.
Cho đến một đêm rằm, trăng sáng vằng vặc, cô gái chủ động rủ người bạn trai ra bờ đê ven sông ngồi tâm sự. Phong cảnh hữu tình, gợi cảm mà người yêu vẫn chẳng nói gì. "Nói đi anh!" cô gái thầm nghĩ. Vẫn im. Cô gái đành gợi ý:
- Trăng hôm nay sáng quá, anh nhỉ?
Lúc này chàng trai mới cất tiếng:
- Rằm mà lị!
Rồi lại ngồi in như thóc!
Sử cũ chép: Trần Thì Kiến tính người cương trực. Trước làm môn khách cho Hưng Đạo Vương, sau được Vương tiến cử lên làm An phủ sứ Thiên Trường. Một hôm, có người hương nhân đem biếu mâm cỗ, Kiến hỏi muốn nhờ vả gì thì người ấy nói chỉ vì kính trọng mà biếu. Nhưng mấy ngày sau người hương nhân kia quả nhiên có việc nhờ vả, An phủ sứ bèn móc họng nôn ra nguyên mâm cỗ.
Chuyện nay: Có ông nọ tên Trần Trụi Lủi, trước làm thư ký uỷ ban, sau vì có đi học tại chức ban đêm lấy được cái bằng Đại học nên dần dần leo lên chức chủ tịch xã. Một hôm, có người mang đến chai rượu ngoại cùng mấy món đồ nhắm hảo hạng. Trụi lủi hỏi biếu vì cớ gì thì người kia đáp: “Không có ý gì, chỉ là mừng anh được thăng chức công bộc cao hơn”. Trụi Lủi cả mừng bảo vợ bày mấy món ấy ra rồi khui rượu để cả hai “trăm trăm”. Đang ăn, quả nhiên người kia có việc nhờ vả, khi ông khách đang nhỏ nhẹ trình bày thì chủ nhà móc họng, mửa ra toàn bộ những gì vừa nuốt vào, sau đó chửi mắng thậm tệ và đuổi khách thẳng cổ. Khách đi rồi, chủ tịch xã phu nhân mới hỏi chồng:
- Không giúp người ta thì thôi, việc gì phải làm vậy?
- Phải cương... quyết... - Lủi chém tay vào không khí.
- Bất quá tôi mua mấy thứ đó trả lại người ta là được chứ gì?
Trần Trụi Lủi bực mình quát tướng lên:
- Bà thì biết cái quái gì! Thằng ngu ấy mua nhầm rượu rởm, đồ nhắm hết “đát”, tôi từng nhiều lần tiếp khách ở nhà hàng nên nuốt qua là biết liền. Không cương quyết móc họng thì chết không kịp ngáp à?
1337
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Nước Thu
Nước thu dưng, trăm rạch đổ vào sông to. Lòng sông rộng cho đến đứng bờ nọ ngóng bờ kia không sao phân biệt được bò với ngựa.
Thấy vậy, Hà Bá đắc ý cho cái đẹp trong thiên hạ chưa còn ai hơn mình. Thuận dòng theo hướng Đông đi tới biển Bắc ngoảnh lại hướng Đông, không thấy mé.
Hà Bá mới than với Hải Thần:
"Tục ngữ có câu: Kẻ biết ít cho không ai bằng mình. Lời nói ấy, để nói tôi là phải. Tôi thường nghe chê chỗ thiếu học của Trọng Ni, nghe khinh cái lòng Nghĩa của Bá Di mà tôi không tin. Nay thấy chỗ vô cùng của Ngài, nếu tôi không đến cửa Ngài mà thị giáo, các nhà đại phương ắt sẽ chê cười tôi"
Thần Hắc Hải nói:
"Cùng ếch giếng không thể nói biển đặng: Nó chỉ biết có cái hang nó mà thôi. Cùng côn trùng mùa hạ, không thể nói băng tuyết đặng: Nó chỉ biết có cái mùa của nó mà thôi! Cùng bọn khúc sĩ không thể nói Đạo đặng họ bị trói buộc trong giáo lý của họ. Nay ông ra khỏi lòng sông, thấy biển cả mà biết xấu hổ. Vậy thì, nói đạo lý với ông được.
Dưới trời, nước không đâu nhiều hơn biển. Đó là nơi muôn sông chảy về, không biết bao giờ thôi, mà không hề đầy, rồi nước biển lại chảy vào các sông không biết bao giờ ngưng mà không hề vơi. Xuân, Thu chẳng biến đổi nó, mà thủy hạn nó cũng chẳng cần biết đến làm gì. Hơn rạch sông không biết lượng số nào mà kể, mà ta chưa từng cậy đó là nhiều, là vì tự sánh với Trời Đất, Âm Dương, thì ta có khác nào một viên đá nhỏ, một gốc cây gầy trong dãy núi to. Đã rằng là ít, sao thấy mình nhiều? Bốn biển ở trong Trời Đất phải chăng cũng chỉ là những hang nhỏ ở trong đầm lớn hay sao? Trung Quốc nằm trong bốn biển cũng chẳng giống hạt lúa ở trong kho lớn hay sao? Vạn vật, lấy số muôn mà nói, thì người chỉ được một số mà thôi! Lấy chín châu, nơi lúa thóc sinh sản toàn xe thông hành, thì người cũng không qua số một. Vậy, người đối với vạn vật, khác nào một sợi lông trên mình ngựa. Chỗ liên hiệp của Ngũ Đế, chỗ tranh giành của Tam Hoàng, chỗ lo lắng của người nhân, chỗ nhọc nhằn của kẻ sĩ, rốt lại có gì! Bá Di từ ngôi, lấy đó là danh, Trọng Ni nói ra, gọi đó là rộng. Những cái mà họ cho rằng nhiều đó, thì có khác nào người trước khi thấy biển, cho rằng nước của mình là nhiều vậy"
Hà Bá nói:
"Vậy, tôi cho Trời Đất là cực đại, mảy lông là cực tiểu, được không?"
Thần Bắc Hải nói:
"Không được! Kìa như muôn vật biến hóa không cùng, thời gian đi mãi không dừng, số phận dời đổi không thường, trước sau liên tiếp không thôi. Ấy nên bậc đại trí xét việc xa gần, thấy nhỏ không cho là ít, thấy lớn không cho là nhiều, đó là biết được chỗ biến vô cùng. Luận qua kim cổ, thì việc đã qua không ưu tư, việc đương thời không bận lòng: Đó là biết được chỗ không dừng của thời giờ. Xét việc lưng vơi, thì được không vui, mất không buồn: Đó là biết được chỗ thông thường của số phận. Thầy đặng như vậy thì sống không mừng, chết không lo: Đó là biết được chỗ trước sau liên tiếp không ngừng vậy. Chỗ biết của người, không bằng chỗ họ không biết. Thuở sinh ra không bằng thuở chưa sinh. Muốn lấy chỗ cực tiểu của mình mà cần hiểu tận chỗ cực đại, là mê loạn, là ngu xuẩn. Như thế, làm sao biết được cái lông đủ để làm mẫu của cái cực tiểu, làm sao biết Trời Đất đủ để làm cái mẫu của cái cực đại?"
Hà Bá hỏi:
"Luận giả trong đời đều nói: Một vật rất tinh, thì vô hình, một vật thật lớn, thì không thể bao gồm được. Có phải thực vậy không?"
Thần Bắc Hải nói:
"Tự nhỏ mà xem lớn, làm sao thấy hết đưỡc! Tự lớn mà nhìn nhỏ, làm sao thấy rõ rệt được! Tinh, là cái nhỏ thật nhỏ, thật lớn là cái lớn rất lớn vậy. Cho nên, phương tiện dùng phải khác nhau. Tinh và thô là để nói về những vật hữu hình: Còn vật vô hình thì con số không phân chia được nữa. Không thể bao gồm được, là vật vô cùng mà con số không hạn định được. Cái mà còn luận được, nói được, là cái thô của vật. Cái mà ý xét được, là cái tinh của vật. Nhưng còn cái mà lời không thể luận, ý không thể xét, là bởi nó không phải tinh mà cũng không phải thô.
Thế nên, bậc đại nhân hành động không gây hại cho ai mà cũng không ân huệ cho ai. Động không vì lợi, không coi kẻ canh cửa là hèn. Không vì tiền của mà tranh, cũng không lấy sự tự nhượng làm quý. Công việc thì không nhờ vả vào ai, cũng không khinh kẻ tham lam. Hạnh thì khác người thế tục, nhưng chẳng chuộng sự khác lạ, và làm theo đám đông, không khinh người siểm nịnh. Tước lộc của đời không đủ khuyến, hình phạt không đủ nhục, bởi họ biết phải trái không chỗ phân, lớn nhỏ không chỗ định. Nghe nói rằng: Người có đạo thì lặng lẽ, bậc chi đức thì không mong đặng gì cả, còn người đại nhân thì không có mình: Họ đã hợp tất cả làm một"
Hà Bá lại hỏi:
"Nhờ đâu mà phân biệt được chỗ trong ngoài, chỗ quý tiện, chỗ lớn nhỏ của vật?"
Thần Bắc Hải nói:
"Lấy con mắt Đạo mà xem, thì vật không có quý, tiện. Lấy vật mà xem, thì vật có quý có tiện, vì bởi vật nào cũng tự xem là quý, nên khi sánh lại với vật khác thường cho đó là tiện. Lấy con mắt của thế tục mà xem thì sự phân quý tiện lại không phải ở nơi mình. Lấy con mắt sai biệt mà xem, thì nhân cái lớn của nó mà cho là lớn thì vạn vật không có cái gì là vạn vật không có cái gì là không nhỏ. Biết Trời Đất như hột thóc, biết mảy lông như hòn núi là biết rõ chỗ sai biệt rồi vậy. Lấy theo chỗ công ích mà xem, nhân cái có của nó mà cho là có thì vạn vật không gì là không có, nhân cái không của nó mà cho là không, thì vạn vật không gì là không. Biết Đông Tây là nghịch nhau mà không có nhau không được, thì là biết phân định sự công dụng rồi, lấy chỗ ưa thích mà xem, nhân cái phải vậy của vật này mà cho nó là phải, thì vạn vật không vật gì là không phải, nhân cái không phải vậy của vậy này mà cho nó là không phải, thì vạn vật không vật nào là không phải... Biết Nghiêu và Kiệt đều tự cho rằng mình là phải mà cho nhau là quấy, đó là rõ được cái cốt của sự ưa thích rồi! Xưa kia Nghiêu Thuấn nhường ngôi nhau mà làm vua, còn Chi và Khoái cũng nhường nhau mà phải mất. Thang Vũ tranh nhau mà được nước, Bạch công tranh nhau mà phải chết. Do đó mà xem, trong lễ tranh nhượng, trong hành động của Nghiêu Kiệt, quý tiện tùy th
ời, chưa lấy đâu làm mực th% C6?ờng được. Cái lương lê dùng phá thành, không dùng mà lấp hang được: Khí cụ khác nhau. Kỳ, Ký, Hoa, Lưu một ngày chạy nghìn dặm mà không bắt chuột như mèo: Tài năng khác nhau. Chim cú đêm mắt tỏ đến bắt rận được, mà ban ngày gò núi sờ sờ không thấy: Tính khác nhau. Nên chi, muốn có phải mà không có quấy, muốn có trị mà không có loạn là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, cái Tình của Vạn Vật. Ấy là mơ Trời mà không có Đất, mơ Âm mà không có Dương đó.
Vậy mà cứ bàn mãi mà không thôi, thì rõ nếu không phải là ngu, thì là vu khống vậy! Đế Vương tranh nhượng, hễ sái thời nghịch tục thì gọi là soán, còn nhằm thời thuận tục, thì gọi là nghĩa. Hà Thần này! Hãy lẳng lặng mà xét lại, sẽ thấy rõ đâu là cái gốc của Quý Tiện, của Lớn Nhỏ
Hà Bá hỏi:
"Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ, phải đừng làm gì bây giờ? Tôi phải từ, phải thận, phải ưa, phải bỏ cái gì, tôi phải làm sao đây?"
Thần Bắc Hải nói:
"Lấy con mắt Đạo mà xem thì có gì là quý, là tiện, đó chỉ là chuyện phản phúc biến thiên đáp qua đáp đổi lại, đừng bận lòng câu chấp đến. Lấy Đạo Lớn mà xem thì có gì là ít, là nhiều, đó chì là chuyện cho ra lấy vào, cũng đừng phải bận lòng. Cùng với đạo sai biệt, thì nghiêm trị như một quốc quân không tư đức, tự nhiên như tế thần xã mà đừng cầu phúc riêng tư. Lòng mênh mông như cái vô cùng của bốn phương, không phân bờ cõi. Ôm chầm tất cả vạn vật, không thiên về phương nào! Muôn vật đều là nhất tề, cho nên có gì đâu là dài ngắn. Đạo thì không sau, không trước, vật thì có chết có sống, đừng trông cậy nó ở lúc thành tựu. Một vơi một đầy: Không hình thức nào đứng vững mãi. Không ai thêm được tuổi, không ai chận được thời. Khi tăng khi giảm, khi đầy khi vơi nối tiếp nhau luôn: Có sau ắt có trước. Đó là lấy cái phương của đại nghĩa mà nói, lấy cái lý của vạn vật mà luận. Mạng sống của vạn vật như ngựa chạy mau lẹ: Không có cái động nào mà không có biến, không phút nào mà không dời đổi. Phải làm đi gì? Phải không làm đi gì? Hãy để cho vạn vật tự nhiên mà tự hóa!"
Hà Bá hỏi:
"Sao gọi là Trời? Sao gọi là Người?"
Thần Bắc Hải nói:
"Ngựa bò bốn cẳng, đó là Trời, ràng đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là Người. Bởi vậy mới nói: Đừng lấy Người giết Trời, đừng lấy nhân tạo mà giết mạng, đừng lấy sự được mất mà chết theo danh. Cẩn thận mà giữ gìn đừng làm mất, đó gọi là "Trở về cái Chân của mình".
Lời bàn:
Đây có thể gọi là một bài văn u mặc tối thượng thừa kiểu mẫu của Trung Hoa trong đó gồm được tất cả những yếu tố độc đáo của văn u mặc mà có nhiều người cho là "khinh thế ngạo vật". Một lối cười độc đáo mà trang nghiêm, lên án mà không lên án ai cả. Dù là người hùng biện đến đâu cũng không sao dùng sự hùng biện của mình mà tự bào chữa cho nổi.
Hay nhất là Trang đã biết dùng đến những hình ảnh vô cùng khêu gợi để ám chỉ những con người có cái nhìn phiến diện lại tự tôn tự đại với cái hiểu biết vụn vặt chi ly của mình. Vì người đắc Đạo như Hải Thần, còn người có cái nhãn kiến nhị nguyên với lối nhìn phiến diện một chiều một mặt như Hà Thần thật là tuyệt diệu! Những danh từ như "khúc sĩ", "ếch nằm đáy giếng" lại càng khêu gợi hơn nữa.
Trong một đoạn văn khác, Trang đã lên án bọn "khúc sĩ" này là nguồn gốc của ly loạn. Bàn về cái loạn của thời Chiến quốc, Trang viết: "... Trong thời thiên hạ đại loạn, bậc hiền thánh sống trong bóng tối, không còn gì nhất trí trong đạo đức học thuật nữa. Phần đông sống trong những ý kiến cá nhân, riêng tư độc đoán hết sức rời rạc. Cũng như tai, mắt, mũi, miệng... mỗi cơ năng chỉ nhận thức được trong khu vực hạn chế của quang năng mình thôi, thiếu sự thống nhất nhận thức với nhau. Bách gia chư tử với những kỹ thuật của riêng mỗi nhà cũng thế. Mỗi nhà đều hay đều giỏi trong đường lối chuyên môn của mình, tất cả tuy đều hữu dụng trong một lúc nào đó thôi, nhưng họ thiếu sự gồm nắm, thiếu luồng mắt thống quan, nên họ chỉ là bọn khúc sĩ mà thôi. Họ là bọn người cắt vụn vũ trụ ra từng khúc, đẽo sự lý của vạn vật ra từng mảnh. Ít kẻ biết nới rộng nhãn quang của mình để nhìn thấy cái đẹp chung hầu xứng với cái chân tướng của Thần mình. Bởi vậy cái đạo (nội thánh ngoại vương) trở nên tối mà không sáng, uất mà không nẩy. Thảy đều làm theo điều mình muốn, lấy mình làm phương thức chung cho tất cả mọi người... Ôi! Đạo thuật đã bị thiên hạ xé nát!"
Đoạn chót, khi Trang giảng về cái đạo hữu vi (nhân vi) và cái đạo vô vi (thiên vi) bằng một hình ảnh hết sức bất ngờ táo bạo: Ngựa bò bốn cẳng, đó là Trời, ràng đầu ngựa, xỏ mũi bò đó là Người!", không rõ ta có nên cười hay nên khóc? Quả là "đề tiếu giai phi"!548
Sáng nay, trời mùa xuân quang đảng quá, những mầm non đầy nhựa đang e ấp dưới những nách thân yêu của các kẻ lá, cành cây, muôn chim đang hòa vui, reo hót những bản nhạc mừng xuân, líu lo lãnh lót. Gió xuân lùa nhẹ những làn hương trong sạch của muôn hoa, làm giảm bớt một ít u buồn của những khách trần gian tục lụy, đồng thời gạt vỡ những giọt sương còn bám chặt, đè nặng trên mình hoa lá.
Vầng thái dương đã bắt đầu lên, nhả những tia nắng vàng chiếu tỏa khắp không gian, đem lại loài người nguồn sinh lực vô biên, đánh tan sự đen tối của đêm dài đầy sợ hãi.
Thành Xá Vệ đã trở về với những sự náo nhiệt của một đô thị lớn.
Khắp các nẻo đường, người đi, kẻ lại lăng xăng nhứt là con đường lớn vô ra cửa thành.
Ô kìa! Sao những người đi đường họ đứng dừng lại và nép qua một bên đường hết thế kia? Họ còn đứng im ra dáng cung kính nữa! À, thì ra có Ðức Phật từ vườn Cấp Cô Ðộc vào thành hóa trai, đi gần đến họ. Phải, ai thấy Phật mà không cung kính cuối đầu cho được. Bước đi khoan thai, tướng người oai nghiêm, hùng dũng sức sáng của trí huệ cao siêu, dường như không thể tiềm tàng hết trong người phải tung phát ra ngoài, thành muôn ngàn tia hòa quang rực rỡ. Ðứng xa trông cũng đủ khiếp; lựa là phải đứng gần; càng ngắm lâu, càng nép phục.
Ðức Phật vào thành, theo đường phố, tuần tự hết nhà nầy sang nhà khác để hóa trai. Ði như thế ngót một tiếng đồng hồ. Rồi bỗng nhiên Ngài đứng lại trước cổng một ngôi nhà khá sang trọng. Chẳng nói chẳng rằng, Ngài đứng im đấy thật lâu. Cửa cổng vẫn đóng kín và bên trong lặng lẽ tiếng người. Nếu nom kỹ, ta có thể thấy được bên trong vợ chồng chủ nhà và đứa con đang xúm quanh mâm ăn thì phải.
Ðức Phật bèn thâu hào quang và dùng thần lực bay vào.
Tại thành Xá Vệ này, có một ông trưởng giả giàu có vô số thế mà thảm ông lại là người keo kiết nhất đời, không ưa làm việc bố thí, cũng không giúp đỡ ai bao giờ. Mỗi khi ăn ông sai vợ đóng chặt cửa cổng, không tiếp bất cứ một ai. Hơn nữa, cửa cổng nhà ông ít khi mở; ông rất sợ những vị Sa môn đến hóa trai và nhất là những người ăn mày. Ông keo kiết đến có tiếng khắp đô thành, thì phải biết! Ngày hôm nay, ông nghe sao thèm thịt gà lạ thường, lại thêm thằng con cũng đồng một ao ước như ông. Sao một hồi tranh chấp trong cõi lòng, ông bèn quyết định bạo dạn bảo vợ làm thịt con gà trống tơ.
Khi món ăn làm xong, dọn lên mâm, lên bát, vợ chồng và con đồng nhau hỷ hả.
Ðang thích thú khen miếng ngon, miếng béo, ép con, mời vợ, ông trưởng giả bỗng giật nẩy mình, tiếng động chân của Ðức Phật đã đến tận thềm.
- Ðàn việt! Ông bà nên cúng dường cho các thầy Sa môn, được phước báo vô lượng, đức Phật lên tiếng.
Bị quấy rầy, lại thêm keo kiết, trưởng giả nhà ta đổ cáu:
- Quái trong lúc vợ chồng người ta đang ăn uống, ông lại đến kỳ kèo xin xỏ? Nếu biết sự xấu hổ xin mời ông ra ngay cho.
- Trưởng giả là kẻ còn mê muội, tự mình không biết xấu hổ, chớ ta là nhà tu hóa trai có gì mà phải hổ thẹn.
- Tôi và vợ tôi, con tôi đang ăn uống ngon lành như thế này, vui sướng như thế này, mà ông bảo là xấu hổ à?
- Trưởng giả giết cha để ăn, lấy mẹ làm vợ, nuôi nấng cung cấp cho kẻ oán thù, đã không tự xấu hổ, còn lên mặt trở lại chê ta là nhà tu hành không biết thẹn à?
- Ðạo sĩ nói thế nào? Nhà tu hành sao ăn nói kỳ cào thế, tôi giết cha, lấy mẹ hồi nào?
- À, thì ra trưởng giả chưa hiểu gì cả. Con gà trống tơ đang dọn ăn trên mâm kia là cha của ông. Hồi trước vì bản tánh tham lam, keo kiết, nên nhiều đời phải sanh làm loài gà, để ăn bẩn cối xay để trả nghiệp. Vì nghiệp quả của ông ngày nay chấm dứt, nên khiến ông thèm, con ông lại đốc thúc. Vợ ông tuy phải buộc lòng bắt gà làm thịt, chớ khi giết bà ta vẫn đau khổ hung lắm, bởi dây oan nghiệp nhiều đời còn vương vấn. Ðứa con của ông hiện đây, đời trước nó là quỷ La Sát.
Còn vợ ông bây giờ, là mẹ ông hồi nhiều đời trước. Vì ái ân sâu nặng chưa dứt, nên ngày nay phải làm vợ ông để trả cho hết tình yêu thương tiền kiếp.
Ông vì si mê không thấu biết căn nguyên, nên đành giết cha nuôi kẻ oán cừu, lấy mẹ làm vợ, thật là điên đảo luân thường.
Chúng sinh vì nghiệp chướng che ngăn, tạo nghiệp, thọ quả, quay cuồng mãi mãi, sanh tử trôi lăn trong ba nẻo, sáu đường không ngày nào cùng tận. Thật đáng hổ thẹn, đáng thương tiếc biết bao!
- Bạch Ngài phải làm thế nào để có thể hiểu rõ được và bậc người nào mới có thể thoát khỏi vòng khổ lụy của sanh tử, luân hồi, xin Ngài từ bi bảo cho chúng tôi thật muôn phần cảm tạ.
- Nầy thiện nam tử! Những sự oan oan tương báo, tử khứ sanh lai, lặn hụp nổi chìm như thế, chỉ những bậc tu hành đã dứt trừ tất cả phiền não mê lầm, chứng đặng ngũ nhãn lục thông mới mong thoát khỏi. Còn ngoài ra đều khó tránh được sự trả vay của nhiều đời nhân quả. Ta này đã quan sát kỹ, thấy trưởng giả nhân tiền căn có gieo hột giống Phật vào thức điền, dù trải bao nhiêu kiếp luân hồi đền trả oan khiên, nhưng phước báo vẫn không mất.
Ngày nay nghiệp quả trả xong, căn lành thuần thục, nên ta khuyên trưởng giả hãy phát tâm cho mạnh mẽ tinh tấn tu hành kẻo ngày sau khó thoát.
Kỳ diệu thay! Lời của Ðức Phật vừa thốt xong như liều thuốc trị bệnh, ông trưởng giả sợ tháo mồ hôi, tóc lông đều dựng đứng. Phật liền hiện oai thần cho ông nhớ lại những tội khiên tiền kiếp.
Bấy giờ ông trưởng giả hết sức ăn năn lạy Phật để sám hối những tội khiên ông đã tạo và phát nguyện tu hành, mong thoát khỏi những tội nghiệp do ngu muội tạo ra, tánh bỏn sẻn bỗng nhiên tiên tan mất.
- Lạy Ngài, nhờ thần lực của Ngài phá tan những lớp mây mờ trong đầu óc của con, ngày nay con mới thấy rõ đâu là sự thật. Bấy lâu nay, con tưởng những cái gì xung quanh con, nào vợ, nào con, nào của cải, đều là chân thật của con, nên con mới lẫn tiếc từ đồng. Xét ra con vì nghiệp chướng ngăn che, càng nhận thấy càng chìm, nên càng mê muội, lấy giả làm chơn, cho hư là thật. Ngày nay con đã rõ ra thì sự đã rồi, mong nhờ ơn Ngài giải thoát giùm con. Con thật muôn phần cảm tạ.
Ðức Phật nhận lời thâu ông vào hàng đệ tử. Ông xin thọ 5 giới của Phật, tu hành chứng đặng quả Tu Ðà Hoàn.
Tóc vàng chạy vào nhà, nhảy cẫng lên sung sướng:
- Anh ơi, chúng mình sắp có con! Sinh đôi hẳn hoi nhé! Anh chồng ôm lấy vợ, âu yếm:
- Thật tuyệt vời! Em làm thế nào mà phát hiện được thai đôi sớm như thế?
- Dễ ợt đấy mà, em mua hai que và thử tất, mỗi que báo là có một thai!
1783
"Chim quyên ăn trái nhãn lồng"
Đôi ta nào phải vợ chồng mà thương
Câu kinh thấy nhớ giáo đường
Tháng hai nằm mộng mù sương tháng mười
Đèn khuya đứng ngóng sao trời
Bàn tay vụng dại nhớ mười ngón thon
Nụ hôn mềm nhớ môi ngon
Vai thương tóc rối ngủ ngoan tội tình
Mi buồn thương mắt lặng thinh
Chân mòn thương gót một mình lẻ loi
Tháng hai xanh giậu mồng tơi
Có người quen áo thương hơi một người ...
Có một anh chàng ngốc, cứ bị vợ bắt nạt mãi. Anh ta cũng biết thế là nhục, nhưng nhu nhược, vả cũng biết mình sai, đành cắn răng chịu. Một hôm, có người bạn đến chơi, anh ta năn nỉ vợ: - Này mình ạ! Hôm nay có khách, mình hãy để cho tôi mát mặt một tí. Nghĩa là bao giờ có khách thì mình để cho tôi được phép ra oai, hay hò hét gì, mặc ý tôi. Không có người ta lại bảo đàn bà nhà nầy lấn át chồng thì xấu tôi mà cũng xấu cả mình. Thấy chồng nói vậy, chị vợ cũng thương tình, vả nhịn chồng một hôm để được tiếng vợ hiền, cũng không thiệt gì, liền ưng thuận. Lúc có mặt bạn, anh chồng tha hồ làm mưa làm gió, chị vợ vẫn không hề hé răng nói lại nửa lời. Cơm dọn ra, đã đủ các thức ăn ngon lành, sốt dẻo, thế mà anh vẫn luôn mồm chê: - Bát giả cầy này, làm mặn quá! - Giời ơi! Thịt gà sao lại chặt ra như thế này? - Cá rán sao lại để cả vảy? Làm như mình sành lắm. Chị vợ tức lộn ruột lên rồi, nhưng vẫn cứ tươi cười, ăn nói nhẹ nhàng, mềm mỏng. Khách thấy thế, khen bạn có người vợ hiền. Ðược thể, anh ta càng lên mặt tợn. Nhìn khắp mâm cơm, thấy không còn món gì chê được nữa, anh ta hậm hực mãi. Lúc nhìn đến bát nước mắm, anh ta vội nói to: - Này! Nước mắm nguội thế này, sao không hâm lên, hử? Khách nghe hỏi, lăn ra cười. Còn chị vợ thì uất ức quá, xấu hổ thay cho chồng, liền lôi cổ xuống bếp, mắng cho một trận nên thân.