Một cặp vợ chồng mới cưới nọ đưa nhau đi hưởng tuần trăng mật. Ðể thêm phần hứng thú trong đêm tân hôn, nàng e thẹn đề nghị là họ sẽ "làm lại" mỗi khi mà ông lão giữ chuông dồng hồ kéo một hồi chuông điểm giờ. Chàng ưng thuận.


Nhưng sau hồi chuông thứ tư, thì chàng kiếm cớ ra ngoài lấy thuốc lá, rồi lảo đảo đi tìm ông lão:


- Ông ơi! chàng nói hổn hển, ông có thể giúp tôi một việc không? Ông làm ơn kéo chuông sau mỗi hai tiếng đồng hồ thay vì một tiếng được không?


Ông lão mỉm cười trả lời:


- À, tôi cũng muốn làm theo lời ông lắm! Nhưng hiện thời thì không thể được.


- Tại sao vậy. Tôi sẽ cho ông tiền nếu ông thấy việc đó làm phiền ông.


- Không phải vậy. Nhưng có một cô đã mướn tôi kéo chuông sau mỗi ba mươi phút đồng hồ rồi.

870




Có anh lính đi xa, nhân có bạn bè ghé thăm, nhờ bạn đem về cho vợ ở nhà một trăm quan tiền và một bức thư. Giữa đường, anh bạn tò mò giở thư ra xem. Không thấy biên số tiền gửi bao nhiêu, chỉ thấy vẽ bốn con chó, một cái hình bát quái, hai con dê, và một cái chũm chọe, anh ta mới nẩy ra ý ăn bớt. Về đến nơi, anh ta chỉ giao cho vợ bạn bức thư và bốn chục quan tiền


Người vợ xem thư, biết thiếu tiền, bèn lên quan nhờ phân xử. Quan hỏi:


- Chồng chị gửi người ta bốn mươi quan tiền, người ta mang về tận tay, còn kiện cáo gì nữa?


Người vợ nói:


- Bẩm quan lớn! Anh ta ăn bớt ạ! Chồng con gửi cho những một trăm quan kia ạ!


- Sao chị biết?


- Bẩm quan lớn! Thư chồng con viết rành rành ra đấy, xin quan lớn xem thư sẽ rõ.


Quan giở bức thư quái lạ kia ra xem, không hiểu gì cả, liền hỏi:


- Thế là thế nào? Bức thư không có chữ nghĩa gì cả, sao chị biết chồng chị gửi một trăm quan?


- Bẩm quan lớn, chồng con biên rõ ràng ra đấy. Bốn con chó là tứ cẩu, cẩu là cửu, bốn chín ba sáu. Bát quái, tám quẻ, mỗi quẻ tám gạch, tám tám sáu tư. Ba mươi sáu với sáu mươi tư, chả là một trăm quan đó sao?


Quan cho là phải, bắt anh kia trả số tiền kia. Nhưng quan còn thắc mắc, hỏi:


- Thế hai con dê và cái chũm chọe kia là ý thế nào?


Chị kia xấu hổ, hai má đỏ ửng, mỉm cười, không nói. Quan hỏi mãi mới thưa:


- Bẩm quan lớn, không có ý gì cả ạ! Nhà con vẽ đùa đấy thôi.


- Ðùa thế nào, phải nói ra!


- Bẩm quan lớn, hai con dê và cái chũm chọe là nhà con hẹn với con rằng đến tết trùng dương thì nhà con sẽ về thăm nhà ạ!


Bấy giờ quan mới nhận thấy mình không sáng ý bằng người đàn bà không học hành gì cả!

2524




Một học sinh đi chơi về tuyên bố với cả phòng:

Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:

- Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?

- Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!

- Nhỏ nói gì với mày?

- Nhỏ nói "Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn".



o O o



Trong lớp tôi có một cô nàng tên Liễu nhưng thân hình thì từa tựa... cô gái Hà Lan, và thường giải quyết mọi rắc rối bằng... cú đấm! Đám con trai bọn tôi là nạn nhân trực tiếp của nàng. Đều trớ trêu nàng lại là... bông hoa duy nhất của lớp, nên chúng tôi đành cắn răn chịu đựng nàng bạo hành, không dám hó hé gì.

Để giải quyết vấn đề này, cả lớp phân công tôi - đứa giỏi văn nhất trong lớp cơ khí 3 này - viết một bức thư để... cảnh tỉnh nàng. Sau một đêm thức trắng, tôi đã làm xong một bài thơ viết lên mặt bàn chỗ nàng hay ngồi, kèm theo một bông hồng đỏ thắm. Nội dung của bài thơ như sau:

Liễu em đẹp, người em mập lắm!
Mắt sáng ngời giơ quả đấm lên cao
Và ai đó là người em giáng xuống
Thì cả cuộc đời, tàn tạ cánh hoa mơ!

Còn anh đây, thức trắng để làm thơ
Ca người đẹp có bàn tay nghìn ký
Và cầu mong cho em đừng để ý
Dí quả tạ vào tan nát đời anh!

1121






Trời bắt đầu vào mùa Thu, ngoài đường lá đổi màu; dọc theo những con đường trong khu phố nhỏ, cây cối mang màu lá mới. Những cây lá: đỏ, vàng, xanh nổi rõ hơn trên nền trời xám màu chì; và lá cũng bắt đầu rụng nhiều.

Trong khu vườn sau nhà bà Năm chỉ còn mấy cây thông tháp bút là còn được màu xanh, căn nhà đâu lưng với khu vườn sau nhà bà có cây phong cành lá um tùm, nhánh de ngang qua hàng rào phủ xuống một góc vườn bà Năm. Những cành cây vào hè máy đứa cháu bà Năm có bóng mát vui chơi chạy nhảy, nhưng kẹt một nỗi vào Thu bà Năm hơi mệt vì phải gom lá hàng tuần. Căn nhà sau lưng là của vợ chồng người Mỹ hồi hưu, quanh năm im lìm dóng kín, thảng hoặc những ngày lễ lớn, Xuân Thu nhị kỳ như lễ Giáng sinh, lễ Phục Sinh mới thấy có ánh lửa reo vui hoặc tiếng ồn ào của đám con cháu về thăm. Bà Năm về ở khu nhà nầy hơn mấy năm rồi, nhưng chưa lần nào bà thấy mặt cặp vợ chồng người hàng xóm. Điều đó cũng dễ hiểu, vì căn nhà đâu lưng lại với nhau, hai mặt nhà quay ra hai con đường chia nhau một block đường.

Bà Năm đúng lặng nhìn khu vườn, được ông Năm chia ra thành nhiều ô nhỏ hình chữ nhựt, đóng bệ bằng cây, mua đất trộn phân đổ lên để cho bà trồng vài ba luống rau. Bà Năm chịu khó theo con ra chợ mua về nào ngò om, rau giấp cá, rau quế, rau thơm, húng cây, húng lủi, bạc hà, tía tô, hành lá... Bà Năm ngày ngày ra săm soi bắt sâu, xới gốc, tưới nước vô phân... Không bao lâu từ ngày bà về nhà nầy mảnh vườn nhỏ có sinh khí. Bà thường nói với sắp nhỏ cháu bà

-Tao ở đây như cây chùm gởi, sống nay thác mai, già rồi hổng có lo gì, chỉ tội nghiệp cho tụi bay thôi hà. Tao còn sống thì tụi bay còn chuyện để mà nghe, nữa khi tao theo ông bà ... chà, lúc đó chăc tụi bay thành Mỹ ráo trọi.

Lũ nhóc vây quanh bà đòi kể chuyện. Bà nhai trầu bỏm bẻm, một chưn co lên ... bà hắng giọng:

-Ừa, để tao kể cho tuị bây nghe. Lại chuyện năm non, bảy núi; chuyện ông bà..

Bà Năm kể chuyện, câu chuyện bà kể cho đám cháu bà nghe, nhưng mắt bà nhìn vào một khoảng không gian nào đó.

Khi vui thì muốn sống dai, Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi. Cuộc đời nó sao lắm nổi truân chuyên, buồn vui khó nói. Mới được đó, rồi mất đó; vừa mới cười xong thì bổng chốc nước mắt nó lưng tròng. Cuộc đời vốn nó là vô thường mà. Ai ai không muốn vui nhiều buồn ít, có phải vậy không? -Bà năm tự hỏi trống không. Vì đời không thường còn mãi mãi nên khi vui thì mình muốn sống dai, sống hoài để hưởng, nhưng lúc buồn thì muốn chết quách đi cho rồi. Vật đổi sao dời, ruộng lúa biến thành nương dâu mấy hồi! Làm sao đem cái chuyện "được thua còn mất" để mà định giá trị con người? Người Việt lúc nào cũng một lòng nhớ tưởng quê-hương, dù cho quê hương có rách nát tơi bời, dù cho đất mẹ có ba chìm bảy nổi, chín linh đinh. Chắc chắn một ngày nào đó sẽ "hết cơn bỉ cực, đến hồi thới lai"

Bà Năm kể không đầu không đuôi, bà nghĩ đôi lúc cũng buồn cho cái vận nước của mình. Càng nghĩ càng cố gắng làm sao để giữ cho cái nền, cái nếp của ông bà không bị mất trong đời sống ôi sao mà nó xô bồ hổn độn ở cái xứ tiền nhiều mà tình nghĩa hổng có bao nhiêu. Thằng con trai bà thường nói tếu với bầu bạn rằng "Tình là chín(h) nhưng tiền là mười còn vàng nó tới 24 lận, mà kim cương thì vô giá." Bà Năm nghĩ thằng con bà nói ra như vậy có vẻ như bi quan, chán đời nhưng nó là chuyện có thật.

Bà Năm cà kê cho lũ nhỏ đang đợi ba má đã ngủ gục dưới sàn nhà. Bà Năm ấm ớ nói như trong cơn mê... Gia đình bà Tư kia được sang đây bằng giấy bảo lảnh của con, những ngày đầu vui vẻ sao nó qua mau quá. Đời sống mới nó hoàn toàn hổng có giống bên nhà tí nào ráo trọi. Chuyện ăn chuyện ở nó khác huơ, khác hoắc. Nó ba mớ làm sao, người quê mùa thì chỉ còn có nước cười đau khóc hận, ai có qua cầu mới hay, ai có hiểu thì cảm thông cho cảnh bà Tư lắm. Mấy người hổng đồng ý kiến thì chê bai; họ nói ai biểu già rồi qua làm gì, sao hổng dzìa bển cho rồi. Nào là đứng núi nầy trông núi nọ. Họ còn biểu là được voi đòi tiên.... Thôi hơi sức đâu mà cãi. Ông bà mình dạy chín người mười ý mà. Thiệt đúng lắm. Nhưng họ có "Ởû trong chăn đâu mà biết chăn có rận". Bà Tư buồn lắm, ông Tư thì còn có chút thú vui cà-phê, cà-pháo, lâu lâu cũng phì phèo đôi điếu thuốc lá "Mâm-bô-rô" len lén vì sợ con nó ngầy ngà, con dâu nó ra vào nhìn ngó. Trời lạnh như vầy nếu có thèm chắc phải lủi vào nhà xe để phì phèo. Thôi thì bỏ tiệt đi cho nó xong. Riết rồi hút thuốc lá như một cái tội. Còn bà Tư đâu biết làm gì cho qua ngày dài đăng đẳng? Đi đâu cũng phải nhờ con cái nó chở đi. Nó vui thì được, hôm nào nó lỡ thua cá độ "phút-bôn", trong mình khó ở thì coi như bữa đó "huề tiền" là may lắm đó. Mà bà Tư bả đâu có muốn gì cho lắm. Chỉ muốn đi chùa, đi lể ngày chủ nhật, nấu nướng cái gì đó để cúng ông bà ngày giỗ, ngày quải vậy mà con cái nó cứ chê. Nó chê mê tín dị đoan, mùi nhang khói hôi nhà, vàng vách... Con cái nó đâu có biết người mình thờ cúng tổ tiên là việc "uống nước nhớ nguồn" Sách Trung Dung có nói "Tấu cách vô ngôn thị mỵ hữu tranh" (Tận tâm cúng vái mà không nói là không có tranh luận) nhưng nó có bằng lòng đâu mà cúng với vái. Cái gì cũng mang tới Chùa hết thảy. Mà cúng Chùa thì lại hổng có tiền. Đàng nào cũng kẹt. Ôi làm cái thân chùm gửi sao mà nó thấm thía làm vậy?

Bà Năm nhổ nước cốt trầu, bà nhìn đám cháu nằm lăn trên mặt thảm mượt như tơ, bà lẫm bẩm: "Đâu phải ai cũng bị như cảnh của bà Tư!? Có lẽ bà Tư là trường hợp đặc biệt đó thôi! Thôi thì ráng cầu nguyện." Bà Tư cũng là người có đọc sách thánh hiền đó chớ; Bả biểu rằng tại mình vô phước vô phần, chớ thiệt ra thì kinh Lể đà dạy rồi: "Duy thánh nhân vi năng hưởng Đế. Hiếu tử vi năng hưởng Thân. Hưởng dã, hưởng dã. Hướng chi nhi nhiên hậu năng hưởng yên" Việc cúng bái, việc thờ lạy tổ tiên là việc từ Vua chí Dân đều phải làm hết. Chỉ có bậc Thánh nhân mới biết tế lễ cho xứng đáng, chỉ có những đứa con hiếu thảo mới tế cho song thân. Chỉ có sự thành tâm mới có sự hiệu quả của việc cúng tế. Nước mình là nước thuộc phạm vi văn hóa Phương Đông mà. Có kiêng thì có lành. Cổ nhân có dạy: "Hữu thành tắc hữu kỳ thần,vô thành tắc vô kỳ thần." Có tin kính thành tâm thì có thần có thánh, ngược lại hổng tin là hổng có Thần linh gì ráo. Đời sống là sự tiếp nối của một chuỗi dài từ vô thỉ đến nay,và sẽ chảy mãi đến vô cùng. Mỗi con người thoạt sinh ra phải nhờ cha mẹ chăm sóc nuôi ăn, dạy bảo. Lúc còn đỏ hỏn, mọi việc đã có mẹ có cha, có tía có má. Do đó nếu có sự dưỡng nuôi, và nếu có "âm đức" thì mọi việc trơn tru; bằng ngược lại... Bà Tư cũng có cái lý của bả, có lẻ bà Tư không dung hợp được cái mới chớ gì?

Nhưng bên mấy người trẻ họ đâu có hiểu. "Thiên hạ chi lễ dã chí phản thủy dã. Chí phản thủy dã dĩ hậu kỳ bổn dã" (Kinh Lể Chương XXIb). Thiệt ra cái lễ nghĩa đi đến cùng cực là trở về với cái cội cái nguồn. Trở lại với cội nguồn đó chính là làm cho cái gốc của mình không bị mất,và mình không vong bản. Bà Năm chỉ là người hủ lậu, khi nghe chuyện chỉ biết thở dài, chớ làm gì hơn được. Bà Tư suy đi nghĩ lại, một ngày kia bả quyết định để dành tiền mua sẳn giấy máy bay về Việt Nam. Bả chuẩn bị một cuộc vượt biên ngược về nhà. Bà Tư đi thiệt, đám con khi biết chuyện hông hiểu họ nghĩ thế nào. Nhưng chỉ tội nghiệp ông chồng già ngày đêm lủi thủi ra vô, nhớ thương bà vợ.

Mấy đứa cháu ngáy pho pho. Bà Năm đứng lên bước vô nhà bếp bật đèn. Mâm cơm bà đã dọn sẵn mấy đứa cháu không chịu ăn. Hai vợ chồng đứa con chưa về. Bà Năm bước lại bàn thờ ông Năm thắp một cây nhang. Bà thở dài.

Mặt trời chưa ra khỏi đám mây. Trời vào Thu nên mặt trời dậy trễ. Bà Năm đã bước ra sau vườn. Bà chăm chút từng cọng rau, bà vuốt tay trên ấy lá bạc hà óng mượt đầy bụi phấn. Bà thở dài:

- Nhà không có cây rau sao ngó nó giống nhà hoang.

Mấy đứa con bà, nhứt là thằng Ba, người con bảo lãnh cho bà sang Mỹ, cứ cằn nhằn:

- Sao má không nghỉ cho khoẻ, mấy cây rau của má trồng không lại tiền nước má tưới cho nó. Má muốn ăn thì con ra ngoài chợ thiếu giống gì ngoài đó. Trồng vừa mệt mà không thấy có lợi gì hết ráo má ơi.

Bà Năm chỉ cười, những đứa con bà đâu có biết. Phải, mà làm sao nó biết được niềm vui của bà khi đứng nhìn những bông cà chua vàng rực rõ như ánh mặt trời khi cây mới đâm bông, nó cũng không thể nào hiểu được bà vui sướng như thế nào khi nhìn thấy cây rau quế nhảy mầm non nhú ra lộc mới, con bà lại càng không thể hiểu được cái mùi của đất. Bà Năm không thể nào diễn tả cho con cháu bà hiểu đươc cái vị hăng hăng nồng ấm của đất mới, mùi cỏ, mùi cây, những thứ mùi bà hít hoài không thấy chán.

Màu đất ở đây đen đen trộn phân ngái ngái, nhưng bà đã thêm đất mới thêm lá cây phong nên dịu bớt; nơi đó cây cuốc nhỏ của bà xới lên có những con trùn đen láng ngo ngoe làm bà nhớ. Bà Năm không biết, không hiểu tại sao nếu mỗi ngày bà không dẵm chưn trên đất là bà phát bịnh.

Bà Năm đi đi lại lại quanh vườn, sau trận mưa đầu mùa đất có mùi nồng nồng xông vô lỗ mũi, mấy cây rau quế rau thơm bà phải lấy bao ny long trùm kín, đang lùng bùng những hơi ấm bên trong. Bà Năm cười một mình. Bà lẩm bẩm:

- Ngộ thiệt, cây mà phải bận áo che.

Mấy đưa con đã dậy ồn ào. Một ngày cuối tuần như mọi ngày đã qua. Bà Năm bươc vô nhà, mùi của đất đi theo Bà Năm vô tận giường ngủ. Và sáng hôm sau mấy đứa con gõ cửa phòng mới hay bà đã ra đi.

2443






Chiều hôm ấy chung đôi con đường vắng
Lá thu vàng làm rực rỡ hoàng hôn
Có chiếc lá có lẽ quá bồn chồn ...
Rời không trung đậu tóc em khe khẽ ...

Anh tinh nghịch nhặt chiếc lá nhỏ bé,
Rồi vu vơ ép chiếc lá lên môi ...
In lên lá những dấu tích bồi hồi,
Đặt môi em, "Anh hôn em yêu đó !"

Em gạt đi, không thèm thương lá cỏ
"Em đây nèn, tất cả, là của anh
Yêu anh và muốn anh yêu chân thành
Sao anh phải hôn em qua sợi lá ?"

Mùa thu xưa sao nỡ qua vội vã,
Chiều nay em đi lạc giữa lá vàng,
Tìm trong ngàn chiếc lá gió vỡ tan,
Một chiếc lá in hình mùa Thu cũ ...
1516





Cách một mặt hồ hẹp từ chỗ nhà tôi ở ngay trung tâm Hà Nội là một khách sạn xấu xí tên Saigon Pull. Xây dựng cách đây bốn năm, khách sạn này là một sàn disco nổi, một con tàu đáy phẳng đèn chớp lòe loẹt phát ra những tiếng nhạc chói tai đến tận 3 giờ sáng mỗi ngày. Mặc dù tôi đã thử nhét những nút giấy báo vào tai, tiếng nện đều đặn thùm thùm thùm vẫn cứ lọt vào. Một lần tôi thậm chí đã thử quấn băng kín khắp đầu.

Nhưng khách sạn này không chỉ tòan sự bực mình, thật ra nó cũng là một món bở. Cô con gái duy nhất của tôi làm tiếp viên ở đó. Nó mang về nhà trung bình cũng đến 15 dollars mỗi đêm, bằng cả nửa tháng lương thầy giáo.

Với khoảng thu nhập này, tôi không phải bước ra khỏi nhà nữa. Lúc trước, khi Lài chưa đi làm, tôi nuôi gia đình bằng nghề bán quẹt Zippo cộng với một khoảng lương hưu còm cõi.

Tôi có một vài câu tủ để khắc lên mấy cái quẹt Zippo. Câu mà tôi ưa thích nhất là câu này: "When I die burry me upside down so the world can kiss my ass."

Câu đó có thể dịch ra như thế này: "Khi tôi chết, hãy chôn tôi chỏng ngược đầu để thế giới có thể hôn lỗ đít tôi."

Tôi thường ngồi trên lề đường đối diện khách sạn Metropole, với sáu cái quẹt Zippo bày lên một chiếc khăn tắm trải dưới đất. (Có thêm khoảng một tá khác ở trong cặp). Tốt hơn hết là không nên bày tất cả ra. Như vậy trông hàng hóa mới có vẻ khan hiếm. Tôi bán khoảng năm, có khi sáu dollars một chiếc.

Có lần một gã khách lạ với vẻ xúc động cực độ, nước mắt lưng tròng, đã đưa tôi đến hai mươi dollars mặc dù tôi ra giá chỉ có mười dollars.

Tôi biết chạm khắc lên đủ loại vật dụng, với một giá thỏa thuận, khi thì một bức tranh nhiệt đới, khi thì một họ tên, hoặc một hai câu đơn giản bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Chẳng hạn trên cái bút nhựa rẻ tiền: cảnh một cây dừa trĩu quả, một mặt trời đang lặn xuống biển và ở phía bên trên là câu này: "Good night, My Love!"

Bây giờ thì tôi ở nhà cả ngày coi sóc Tuấn, thằng cháu ngoại ba tuổi. Chỉ có ba người trong gia đình: tôi, Lài, và Tuấn.

Tuấn là một thằng nhóc to xương và khôn trước tuổi. Nó đã có thể đọc làu làu bảng chữ cái, cả ngược và xuôi, rồi đếm đến một trăm. Tôi dạy Tuấn một vài từ độc đáo. Có lần lão Trương hàng xóm sang chỗ tôi uống bia, tôi bảo: "Tuấn, nói cho ông Trương nghe, cái gì ở trong cơ thể người?"

Tuấn nhìn tôi vẻ ngơ ngác. Tôi động viên: "Nói đi, cái gì rất nhỏ mà không ai thấy được đấy."

Nó vẫn chưa hiểu ý. Tôi gợi ý: "VVVVV!VVVVVVVVVV!"

"Vi trùng."

"Đấy, ông thấy không," tôi nhìn lão Trương, "nó đã biết từ "vi trùng" rồi đấy!"

Lão Trương cười ngặt nghẽo. Con mắt độc nhất còn lại của lão hí lại, kéo dài trên sóng mũi. Miệng lão gần như cắt đứt khuôn mặt lão ra: "Thằng bé này nói tiếng Việt xuất sắc."

Được thể, tôi chỉ vào bức ảnh trên tường: "Ai đấy?"

"Bác Hồ"

"Bác Hồ thế nào?"

"Bác Hồ yêu các cháu thiếu nhi!"

Lúc lão Trương về, tôi ngẫm thấy vui vì lão Trương có vẻ thích thằng cháu Tuấn của tôi lắm, lão lại chẳng bao giờ có nhận xét dở hơi về màu da của Tuấn trước mặt tôi.

Chỉ có một lần, thấy Tuấn đá một quả bóng nhựa trên sàn, lão đưa tay lên trời hét: "Pele!"

Sự thật thì lão Trương thích nói những câu so sánh xa vời. Lão nói rằng Hà Nội ngày càng trở nên giống New York. (Lão chưa bao giờ gần New York, đúng ra thì lão chưa bao giờ rời khỏi Việt Nam). Lão gọi Lài là "diễn viên nổi tiếng" và tôi là "ông tướng." Lão bảo: "Ông trông cứ như Võ Nguyên Giáp." Thật là một so sánh ngớ ngẩn. Như có thể thấy trong tất cả các bức hình, và thậm chí tôi đã từng gặp vị tướng vĩ đại một lần, có hình trong bóp tôi làm chứng hẳn hòi, tướng Giáp có một khuôn mặt tròn, kiểu mặt cóc, trong khi mặt tôi gầy quắt, chẳng có tí thịt nào và mắt hơi lồi ra. Tôi có râu mép rậm trong khi tướng Giáp không râu. Mặc dù mũi tướng Giáp trông như bị đập giập và phẳng lì, dù sao nó cũng vẫn là một thứ phụ tùng trên mặt, trong khi tôi, rất đáng tiếc, đã bị bay mất mũi. Thêm nữa, ai cũng biết tướng Giáp chỉ cao có 1 mét 4, một trong những người lùn nhất hoàn vũ, trong khi tôi, nói có trời đất, là một gã rất cao. Có lẽ lão Trương có ý bảo tôi giống tướng Giáp vì cái khổ người bé tẻo còn lại hiện tại của tôi.

Tôi đã quyết định không gởi Tuấn đến trường. Tại sao bắt nó trở thành đối tượng cho sự tàn nhẫn của những đứa trẻ khác. Tôi bàn với Lài về chuyện này. Đến khi Lài thôi làm nghề tiếp viên thì cũng đã 25 tuổi và có thể mở một tiệm làm tóc. Chúng tôi sẽ đặt tên tiệm là "Paris By Night." Nhổ lông mày, nhuộm sấy, làm móng tay. Tuấn có thể giúp việc vặt trong tiệm khi nó khá lớn, rồi thì là một chuyên viên thẩm mỹ.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, tôi xoa lòng trứng lên tóc Tuấn để kéo tóc nó thẳng ra. Tôi chả rõ làm như vậy có hiệu nghiệm không, nhưng cứ thử vậy. Tôi cũng thường bảo nó xoa bóp mũi để kéo mũi cao lên.

"Làm hai mươi lần như thế."

"Nhưng để làm gì vậy ông?"

"Tốt cho mũi cháu!"

Mỗi lần tập mũi xong như vậy, tôi cho Tuấn một nắm kẹo M & M. Hàng nhập, cực đắt.

Bà Bưởi bán hàng rong ở phố bảo tôi ca sĩ Mỹ, Michael Jackson, tắm mỗi ngày trong bồn tắm sữa tươi để làm trắng da. Sữa hộp đặc không công hiệu, bà nói thêm.

Một mụ nhà quê dốt nát, bà Bưởi thường nài nỉ khách mua bánh rồi ban phát những lời khuyên bảo tân kỳ nhất về khoa học thẩm mỹ. Nhưng một bình sữa tươi đắt đến hơn một dollar. Tôi không thể tiêu tất cả số tiền Lài kiếm được vào việc mua sữa tươi. Tôi đã nghĩ đến việc chỉ mua một bình sữa nhỏ rồi xoa lên da Tuấn những chỗ quan trọng, có lẽ chỉ hai bàn tay và phía trước mặt nó, bằng một cái khăn lau mặt. Nhưng nếu áp dụng không đồng đều như vậy, nó có thể sẽ lớn lên loang lổ như một con nhái hay một nạn nhân bom Napalm. Không đáng liều như thế.

Nhưng tôi là cái quái gì để có thể gọi bà Bưởi là một mụ nhà quê dốt nát? Rõ đạo đức giả. Tôi nên gãi những cái sẹo trên mặt tôi cho đến khi rướm máu để tạ lỗi vì đã gọi bà Bưởi như vậy. Hãy chỉ cho tôi một người Việt Nam, thậm chí những kẻ au courant nhất, kể cả c’est moi, có ai mà không cách đây một thế hệ, cùng lắm là hai, cũng chỉ là dân quê mùa dốt nát?

Đấy, chính các vị cũng có thể chỉ là những tên nhà quê dốt nát như thế. Có lẽ sáng nay còn đứng chỏng đít lên trời cấy lúa, bùn ngập đầu gối. Chẳng có gì phải xấu hổ cả. Có chết thằng quái nào nếu các vị chưa bao giờ ăn kẹo M & M hay chưa bao giờ mua một cuộn giấy đi cầu.

Hãy tự hào vì bạn là một con người tự nhiên, au naturel, thứ lỗi cho tiếng Pháp của tôi. Như một con diệc hay một con trâu nước. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một gia tài của những bài ca dao không ai còn nhớ. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một kho tàng của những kiến thức kỳ bí mà một tên thị thành như tôi chẳng có chút ý niệm gì cả. (Nói như lão Trương, Hà Nội ngày càng trở nên giống như New York và ngày càng trở nên ít giống phần còn lại của Việt Nam). Nếu tôi coi bạn không ra gì, bạn có thể thư tôi với một cái bụng đầy ốc sên hay đặt cả một con vịt sống vào đó. Bởi vì bạn giang nắng cả ngày, chổng đít lên trời cấy lúa, bạn tráng kiện, hơi khùng khùng một chút, và da rám đen. Bạn cũng biết màu da không phải là một cái gì tuyệt đối, không thay đổi được. Màu da là cái quái gì nếu không chỉ là những con vi khuẩn có thể tẩy sạch bằng hóa chất thích hợp?

Khi tôi đề ra ý kiến mở tiệm uốn tóc, Lài có vẻ bối rối, thậm chí có phần hoảng sợ. Khi bực mình điều gì, môi Lài hơi trề ra như thể nó đang sắp phải hôn một người mà nó không muốn hôn. Đầu nó hơi ngửa ra, mắt chớp nhanh. Một con jolie laid, con Lài của tôi. Tôi trấn an Lài: "Đừng lo, đừng lo, bố hứa là bố sẽ chẳng bao giờ chường mặt ra tiệm đâu."

"Bố nói gì thế?" Nó phản đối, đầu ngửa ra, mắt chớp nhanh.

"Ấy, thì đó là một chỗ đẹp đẽ. Ai lại muốn trông thấy một con quái vật xấu xí ở đấy?"

Sự thật là thế hệ trẻ có rất ít khoan dung đối với sự xấu xí, đối với tất cả những gì tồi tàn, thương tật hay không ăn ảnh. Tất cả những nhắc nhở về cuộc chiến tranh làm chúng bối rối. Cuộc chiến tranh chính nó là một sự xấu hổ. Một sai lầm khổng lồ. (Và chúng nó đúng, dĩ nhiên, nhưng chúng oán trách những người như tôi vì đã tham dự vào cuộc chiến đó như thể chúng tôi đã có thể chọn lựa). Bây giờ chúng thấy những người Mỹ thân thiện rủng rỉnh tiền bạc trên đường phố mà không thể hình dung ra rằng chúng tôi đã từng chiến đấu chống Mỹ.

Mỗi đêm mất ngủ nằm trong mùng cạnh thằng cháu, tôi thường nhớ lại quãng đời bình thường nhưng chông gai. Cho đến lúc này, ở tuổi 53, tôi mới biết thế nào là sự buồn chán, một thứ yên bình, nếu không muốn nói là hạnh phúc. Tôi thường nghĩ về vợ tôi, về bốn đêm ăn nằm của chúng tôi. Có những người đàn ông được số phận sinh ra để tận hưởng vô số đêm yêu đương. Số phận của tôi là bốn đêm yêu đương. Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời, người ta nói như vậy. Mỗi đêm mỗi khác nhau. Trong những cách nào đó, có thể là một sự may mắn vì Thế Uyển, người vợ mà tôi chẳng biết bao nhiêu, đã qua đời được hai năm ngày tôi trở về từ cuộc chiến tranh. Tôi đã trở thành một của nợ, vô dụng, tàn phế.

Có lúc tôi nhớ về những ngày ngắn ngủi ở Huế, thành phố duy nhất ngoài Hà Nội mà tôi biết; hay về vụ tôi lừa quả thối một nhà báo Quân Đội Nhân Dân, bịa chuyện tôi đã ép một xe tăng của quân Cộng Hòa đâm vào chính lô cốt của chúng như thế nào - "Ôi, giá mà cô nghe được tiếng chúng nó kêu thét lên"; hay nhớ về vụ chúng tôi phát hiện một xe nhà binh Mỹ lật bên vệ đường với tên tài xế đã chết, và nỗi vui sướng của chúng tôi khi tìm thấy cả một thùng xe đầy thịt hộp và trái cây; hay nhớ về lần tôi dẫm lên một tên lính Mỹ nhưng đã không bắn hắn, và chuyện đó đã làm tôi mất ăn mất ngủ như thế nào cả mấy tuần liền; hay chuyện một két whisky mà tiểu đoàn tôi tìm được trong một căn cứ bị chiếm của quân Cộng Hòa.

Lúc mới ra trận, có lần tôi đã tưởng một dải thòng lòng vắt vẻo trên ngọn cây là ruột người. Màu xám hồng và ri rỉ máu. Tôi hoảng sợ đến nôn thốc nôn tháo. Khi tôi kể chuyện này với những người lính khác, tất cả bọn họ đều cười: "Đấy là một con rắn, thằng đần!"

Thường thì Lài không về nhà cho đến tám giờ sáng hôm sau. Những người nước ngoài và Việt kiều thích đi ngủ trễ, nó bảo. Và thường thì họ thích trò chuyện chút đỉnh khi thức dậy, dù có phải trả thêm chút tiền, nó nói thêm.

Thực ra tôi chẳng bao giờ vặn hỏi Lài về công việc của nó, nhưng đôi khi có những chuyện mà nó kể cho tôi. Chúng tôi đã thỏa thuận là Lài không bao giờ tiếp khách ở nhà. (Có mặt Tuấn, đó sẽ là một điều vô đạo đức).

Tuy vậy có lần một gã Việt kiều đến nhà vào một đêm Lài nghỉ làm và van nài khẩn khoản xin được vào. Mặc dù rất say, gã trai trẻ không hề tỏ vẻ vô lễ. Sau một lúc bàn bạc, chúng tôi quyết định, thôi thì nhằm quái gì, cứ để thằng con hoang khốn khổ vào nhà.

"Cám ơn bác, cám ơn bác lắm," gã Việt kiều nói bằng giọng Quảng Ngãi đặc sệt, cúi rạp xuống như một con rối, hai bàn tay múp míp chắp lại trước ngực.

"Chưa phải Tết, miễn lạy!"

"Cám ơn bác!"

"Cứ coi chúng tôi như người nhà!"

Thế, bốn mạng người chúng tôi ngủ trên hai cái giường trong căn nhà một phòng. Gã Việt kiều, quần áo nguyên trên người, nằm ôm lấy Lài như thể Lài là cái phao cuối cùng còn nổi bập bềnh trên biển Hải Nam, lũ cá mập trắng đang bơi lội dưới gầm giường. Hắn lầm rầm kể lể chuyện đời hắn, một chuyên gia đổ rác ở Miami, rồi bỏ đi trước lúc mặt trời mọc.

Sau khi gã Việt kiều ra về, thằng ranh con Tuấn hỏi: "Ông ấy là bố con phải không ạ?"


Mặc dù Saigon Pull cách nhà chúng tôi đúng một sải ném đá, thường thì Lài phải mất mười lăm phút để lái quanh hồ trên chiếc Dream của nó. Tôi luôn nhận ra mỗi khi nó về bằng vào tiếng sủa cuống cuồng của con chó cái Pekinese nhà lão Trương. Lài thường mang một vài món gì đó mua từ chợ, khi thì xôi lạp xưởng, bánh mì paté, khi thì bún thịt nướng. Thỉnh thoảng nó mang về mấy tờ báo hay tạp chí ngoại quốc.

Mặc dù tôi thưởng thức tất cả những bức hình trong các tạp chí, thậm chí cả những bức quái dị: như cảnh bài trí một căn phòng tắm trong một bức ảnh quảng cáo xà phòng, hay cảnh một cái đầu hươu lông lá treo bên trên lò sưởi, những bức hình hấp dẫn tôi nhất là những bức hình chụp tai nạn và thiên tai: hình một chiếc xe đua bốc cháy, một cuộc nổi loạn, một người bị còng tay... Đấy là chỉ để biết chắc rằng những người ngoại quốc cũng đau khổ, ở ngay trên đất nước họ, vì những người ngoại quốc ddến đây, năm 1995, không biết đau khổ là gì.

Trên hình bìa của tờ Bưu Điện Băngkok tuần trước là tấm ảnh chụp một người đàn ông đội beret đỏ, quần khaki, áo thun trắng, đang chỉa khẩu SA-93 của Bulgary vào một người đàn ông khác nằm trên mặt đất, trần truồng, ngoại trừ một đôi tất xanh ở chân. Tôi đã thấy chiến tranh, nhưng tôi chưa bao giờ thấy chiến tranh một cách trắng trợn như vậy. Tôi chẳng rõ đấy là ở nước nào. Nhưng cả hai người đàn ông đều da đen nên có lẽ là ở Phi châu. Người đàn ông trần truồng che hạ bộ bằng một tay trong khi cố gắng ngăn cái chết không tránh được bằng tay còn lại. Một chiếc tất tuột lủng lẳng nơi chân. Cạnh đó, năm thiếu niên núp sau một bức tường đang chứng kiến màn trình diễn công cộng này với những đôi mắt dè chừng.

Tôi chỉ thấy người da đen một lần duy nhất ở khoảng cách gần. Đó là trong một cánh rừng gần Pleiku. Chúng tôi vừa phục kích một toán tuần tra Mỹ và đang ra sức thu lượm vũ khí từ những xác chết trước khi trực thăng đến. Tôi dẫm lên một khúc cây đổ lên cái gì đó mềm mềm. Một cái gì đó rên rỉ dưới chân tôi. Đó là một người lính da đen bị thương khá nặng, máu chảy đầm đìa nhưng hãy còn tỉnh táo, cánh tay phải của anh ta đã văng mất. Cho đến bây giờ tôi hãy còn nhớ khuôn mặt của người lính: anh ta có những mụn nhỏ kỳ quặc phía dưới má và một chỏm râu dê lưa thưa. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt cũng đang nhìn trừng trừng vào tôi. Không có ai ở gần kề. Tôi tiếp tục bước đi.

Khi Tuấn sinh ra, tôi lập tức nghĩ đến người lính da đen tôi đã không giết. Một trò đùa của thuyết luân hồi: tôi đã thích người da đen trước kia quá, thì đây, bây giờ tôi có thêm một đứa da đen nữa. Tôi cười như điên đến nỗi trong bệnh viện, người ta tưởng tôi điên.

Chuyện đó đã làm phiền tôi suốt mấy tuần, sự kiện tôi đã không thể bắn người lính đó. Tôi là một người lính như thế nào nếu tôi đã không kết liễu kẻ thù?

Nhưng khuôn mặt đó cứ trở đi trở lại, một khuôn mặt không biểu lộ sợ hãi hay thách thức, với những mụn nhỏ dưới má và một chỏm râu dê lởm chởm. Nếu có một biểu hiệu nào, thì đó là sự bối rối. Như thể anh ta chỉ vừa thức giấc và ngạc nhiên nhìn thấy tôi đứng bên cạnh. Một phản ứng khá nữ tính, tôi kết luận, để cảm thấy bối rối sau khi đã bị xâm phạm. Đấy là bởi vì anh ta đã bị bắt gặp trong một tình thế thỏa hiệp, một cách rõ ràng nhất, cũng như tôi vậy. Cứ như thể tôi đã bước vào nhà vệ sinh mà không gõ cửa và bắt gặp anh ta đang ngồi chồm hổm trên cái lỗ xi măng. "Xin thứ lỗi, thưa ngài." Nhưng tại sao hai chúng tôi đã phải ở trong cánh rừng tan hoang đầy muỗi đó trong một buổi chiều mùa hè nóng không thể tin được? Anh ta với một cánh tay đã biến mất và người vùi trong bùn? Còn tôi với hai chân sắp sửa bị thổi bay đi mãi mãi?

2181





Một mùi lạ tạt qua mũi, anh tỉnh cơn gà gật. Mùi thơm son phấn. Nói đúng hơn, một thứ mùi son phấn ngầy ngậy, nồng nàn, tựa hồ trộn lẫn chút mùi mồ hôi mỡ màng beo béo hay sao ấy? Đầu vẫn gục trên cổ, anh nhướng mi, đỏ nhìn qua phía trái chỗ mình ngồi. Một cặp đùi đồ sộ căng bóng dưới lần xoa ngoại màu cánh trả, hầu như đen thẫm, xếp bên nhau song song như hai quả dưa hấu đập vào luồng mắt còn lơ mơ ngái ngủ. Anh khẽ cựa mình vì thấy một bên vai bị lấn ép. Vai anh liền được giải toả khi người ngồi cạnh vừa hơi xoay mình, duỗi cánh tay, rồi một bàn tay nung núc với những ngón chũn móng tô nhũ bạc óng ánh hơi xoè ra úp chụp lên một bên đùi, chiếc đùi béo nục với chiếc cầu gối cũng u lên tròn vo, càng nom càng giống hệt quả dưa hấu cỡ bự. Hai chiếc nhẫn vàng, mặt ngọc xanh ngọc đỏ cũng to bự, tôn thêm ở bà ta vẻ giàu sang phú quý.

Đầu vẫn cúi, gà gật, anh cưỡng lại ý muốn liếc ngang sang, chỉ cố đoán già đoán non bà mệnh phụ mà sự tình cờ đã đặt ngồi kề cạnh mình, tuổi phải ngót nghét năm mươi. Mu bàn tay đã sần sùi lên thế kia, phấn đóng thành vẩy trắng, nhìn kỹ mà xem. Bà ta lên xe từ lúc nào ấy nhỉ, chà chà, mình vừa chợp một giấc say quá thế.
Trong anh gợn lên một chút hổ thẹn với chính mình. "Phổi bò!". Hoá ra cái náo nức ban đầu của mình cũng chỉ là phổi bò, một cái gì vẫn như hời hợt giả tạo. Chiếc xe ca sơn xanh da trời với những vạch vàng vạch đỏ chạy dài, hầu như mới, trông đỏm dáng, khá sang trọng, khác hẳn cái dáng cũ kỹ bệ rạc của những chiếc xe miền Bắc từng trải qua bom đạn, sau chặng nghỉ ăn tối ở Đà Nẵng, đã khẩn trương lên đường lại, lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Bon bon lướt trên con đường nhựa huyết mạch của chiến tranh được bảo dưỡng khá tốt, nó tiến nhanh với tốc độ đều đều về phía Nam. Dường như nó cũng muốn đáp ứng cái hào hứng của anh, người cán bộ " Bắc việt". muốn được sớm tận mặt thấy một nửa miền đất nước mà chỉ dăm ba tháng trước đây, đối với anh cũng như đồng bào miền Bắc, còn là nơi đất cấm không thể nào mơ ước đặt chân lên. Lúc bình minh vừa rạng, nhìn ra trước, chênh chếch về phía trái, một dải lụa mờ trắng lô xô tiến ập về phía chiếc xe. Chao ôi! Biển! biển! Những làn sóng bạc đầu kéo dài như dải lụa ấy, cung với cảnh hứng đông, càng lúc càng sáng trắng lên lấp lánh, sôi trào đồng thời, mầu nước biển ngoài kia chuyển nhanh từ tím thẫm sang mầu tím ngát rồi làm tím. Lần đầu tiên anh thấy con đường quốc lộ 1 đi sát gần biển Đông đến thế. Chao ôi, giá lúc này có nhảy ra khỏi xe, thở căng lồng ngực mà lao ra chạy như một lực sĩ điền kinh giữa khoảng trời thênh thang phóng khoáng! Hít thở cái bầu trời Nam vừa thoắt trở lại thanh bình! Nuốt tràn tim tràn phổi cái màu biển tím làm ngan ngát! Nhìn cho no mắt những rặng dừa, vườn dừa rừng dừa ken sít, những dòng sông xanh leo lẻo miền Nam Trung Bộ, những dáng thá Chàm ẩn hiện như trong mơ! Thế rồi, mệt nhoài vì bao cảm giác, ấn tượng dồn dập anh gục đầu thiếp đi lúc nào không biết.

Xe đã dừng đổ khách ở chỗ nào ấy nhỉ, anh tự hỏi. Ngồi cạnh anh lúc sáng sớm ở phía trái là một ông già cơ, ừ đúng, một ông già âu phục màu ghi là thẳng tặp diêm dúa, cùng đi với vợ, bà ngồi cạnh cửa sổ xe. Lúc này ngồi thay vào chỗ của ông là bà mệnh phụ to béo đồ sộ này. Phía bên trái bà ta, cạnh cửa sổ, cũng là một người khác mới, một phụ nữ, chắc hẳn trẻ hơn, anh đoán thế, căn cứ vào chiếc tà áo dài bằng crếp mịn màu thiên thanh. Trên tà áo dài ấy, anh thấy một chiếc làn đan bằng thứ sợi gì trắng ngà mềm óng (Sau này mới biết người ta gọi là lá buông). Nắm nhẹ nhàng lên quai làn là hao bàn tay nhỏ nhắn, các đầu ngón hồng hồng đan chớm lên nhau. Anh chú ý thấy móng tay để tự nhiên, không tô nhuộm. Chủ nhân hai bàn tay này - anh trở lại với cái thói quen hay xét đoán - phải là người trên dưới ba mươi tuổi, cầu cho cô ta không quá ba một ba hai! Cổ tay không tròn mọng nữa, nhưng da dẻ vẫn còn mịn màng. Và cái tư thế hai bàn tay khẽ ấp lên trước làn vẫn còn đượm một dáng vẻ yêu kiều gần như quý phái.

Anh khẽ cựa mình lần nữa bả vai của bà mệnh phụ lại lăm le lấn chiếm. Bà kia né vai, hơi quay mặt nhìn anh có cảm giác trong ánh mắt liếc nhìn ấy có một cái nguýt ngang. Xin lỗi, xin lỗi. anh trả lời thầm, tôi không hề có ý ganh tị hoặc bực bội với sự phì nộn, trời cho của bà. Lỗi tại chiếc ghế quá chật. Nhưng tại sao từ đầu bà không giành lấy chỗ ngồi cạnh cửa sổ, vắt cánh tay lên thành xe, có phải thoải mái hơn không . Bà là thế nào với cô ta, mà lại phải chen vào giữa, cách li cô ta với tôi. Một bảo vệ hoàn toàn không cần thiết, cam đoan với bà thế.

Lúc này xe lại đi qua một quãng đường giáp biển. Trời, cái màu biển quê hương dưới một bầu trời Nam nhiệt đới sao mà biếc xanh da diết. Anh chợt nẩy ao ước, giá như xe lúc này tạm dừng, hoặc chết máy cũng được, cho mình xuống ngắm nhìn chốc lát. Hoặc giả như mình đổi chỗ cho người phụ nữ trẻ kia, ló cổ ra ngoài thành xe, hít thở khí lành. Cái mùi thơm nồng nàn mặn mà toả từ bà mệnh phụ ngồi cạnh quả là ngột ngạt. Đã thế, anh không dám quay đầu, cựa mình lần thứ ba, sợ gây phản ứng. Cổ anh cứng ngắc.

Một lúc nào đó, đến lượt hai quả dưa hấu cụ cựa cụ cựa dưới lần xoa căng bóng bọc ngoài. Rồi chủ nhân của nó nặng nề, cẩn trọng cúi hẳn người quờ sửa cái gì đó nơi sàn xe, có lẽ bà ta nới bớt quai dép để giải phóng bàn chân ngồi lâu sưng thúng. Cơ hội ngàn năm có một! Anh ưỡn ngực, vươn người, quay lắc vai bên này bên kia. Cũng thừa dịp may hiệm có này, anh ném cái liếc nhìn về phía người phụ nữ trẻ mặc áo dài màu thiên thanh và có dáng điệu thanh cao quý phái. Thốt nhiên trán anh thoáng một luống lạnh toát. "HIền!"
Có đúng là lúc bấy giờ miệng anh đã cất lên tiếng gọi hâu như thảng thốt? Giờ đây, mười mấy năm sau, anh vẫn còn băn khoăn vật vã với câu hỏi ấy. Giây phút ấy sống lại trong anh như một cơn mơ. Trong mơ, ta nói chuyện với người khác, có lúc to tiếng tranh cãi nữa, mà vẫn cảm giác như không hể mở miệng. Cả người đối thoại với mình nữa, ta nghe họ tranh cái với những lời nói rành rọt, những giọng điệu bổng trầm biểu hiện tình cảm hết sức rõ ràng mà thật ra không hề thấy người kia máy môi lấy một chút.

Còn người phụ nữ trẻ kia, có đúng là Hiền. Trang Hiền của anh chăng? Có đúng là cô ta đã lặng lẽ đáp lại tiếng kêu thảng thốt của anh bằng một tiếng "chào anh" bình thản, thản nhiên không nhỉ?

Giấy phút ấy thoáng qua rất nhanh. Một ánh chớp. Một cơn mơ. Trầm lặng và khắc nghiệt. Và mệnh phụ đã trở về với từ thế cũ, ngồi ngay ngắn, đồ sộ, tạo một bức thành cách ngăn vững chắc giữa quá khứ và hi
ện tại.

Hiền, Trang Hiền, anh kêu thầm trong đầu óc nóng bừng dưới làn da trán lạnh băng, có phải chính em là Nguyễn Thị Trang Hiền đó chăng. Em ngồi bên tôi, cách nhau trong gang tấc mà biệt xa vời vợi, nhự bị phân cách bởi cả một đại dương. Có phải chính Trang Hiền, người từng biết cho tôi những dòng tha thiết: "Em yêu anh mãi mãi, không bao giờ thay đổi", những dòng thư mà tôi đã thả trôi trên một dòng sông xanh, với bao ý nghĩ buồn vui nào đấy không rõ rệt?

"Chào anh". Phải chăng Hiền đã đáp lời anh như vậy. Đó là tiếng chào gặp mặt hay tiếng chào giã biệt.

Thản nhiên, không âm sắc, không vui không buồn. Thà như Hiền lạnh lùng, hoặc giận dỗi, uất hận, hoặc thậm chí căm ghét tôi đi. Mà có phải chính Hiền ngồi đó không đã. Hay tôi trông nhầm, một ảo ảnh. Hay tôi nghe nhầm một khuyết tật của thính quan, chung quy cũng chỉ là ảo giác.

Hai bên giã biệt nhau từ lúc nào ấy nhỉ. Và giã biệt cách thế nào, nhiều năm tháng rồi, anh hầu như không còn nhớ. Dường như tình yêu cứ phai nhạt dần, thời gian như một chất nước không màu sắc không mùi vị, pha cho những tình cảm mê say nhất cũng loãng dần, loãng dần. những cuộc gặp gỡ, thừ từ qua lại ngày càng thưa thớt, rồi một lúc nào đó ngừng hẳn, lua nào, anh cũng chẳng để ý. Mà chắc phía Hiền cũng vậy. Một thứ thoả thuận ngầm, một quy ước không thành văn.

Cựa quậy. Lần này thì chính bà mệnh phụ cựa quậy vai trước, cứ như bị người đàn ông gầy gò ngồi cạnh là anh xâm lấn. Anh ngồi thẳng lên, hơi cứng người lại, coi như mình có lỗi. Mặc dù vậy, vẫn không ngăn được cái quay đầu khẽ. Để tránh gây ấn tượng mình quay nhìn, để tỏ ý khó chịu và như thế là không lịch sự, anh đưa luồng mắt ra phía cửa sổ xe, làm như đang ngắm cảnh. Anh thấy một cánh tay thon thả trong ống màu thiên thanh chuồi ra vắt ngang lên thành sổ xe. ý chừng Hiền cũng đang bị chèn ép như mình. Bà ta là gì với Hiền ấy nhỉ. Mẹ đẻ hoặc chị, chắc không phải rồi. Chẳng cần nhìn thẳng mặt, anh hình dung bà béo ị có một khuôn bán diện rất thô, mũi cà chua, cằm bạnh nục nặc. Vậy thì mẹ chồng chăng? Hay chỉ là bạn đường ngẫu nhiên, cùng lên một chuyến xe?

Mu bàn tay Hiền đã thoáng nổi gân xanh, anh nhận xét. Có thể nào khác được. Mười mấy năm rồi. Thời gian và cả những thăng trầm cuộc sống. Có mỏng đi chút ít, nhưng cổ tay hiền vẫn trắng trẻo mượt mà, móng không tô nhuộm gợi một vẻ đẹp tinh khiết. Giá mình được nắm lại bàn tay ấy, dù là một lần cuối, đặt nhẹ môi lên những ngón tay thân thuộc yêu thương chứa đầy kỷ niệm.

Hồi bấy giờ hiền còn là một nữ sinh học trường miền Nam, mười bảy tuổi. Hay nói hay cười. Có vẻ thích bàn cãi để làm ra vẻ người lớn. Chuyện xẩy ra tại căn phòng nhỏ gia đình dành cho tôi, trước là phòng học, nay là phòng làm việc tại nhà (tôi viết bài cho một chuyên san). Hiền đến chơi, trả sách, lao vào một cuộc tranh luận. Về nội dung cuốn truyện tính cách nhân vật, hay, to tát hơn, về ý nghĩa và triết lý cuộc đời? Không còn nhớ nữa. Tôi ngồi yên lặng nghe, thỉnh thoảng chêm câu bình luận thoáng ý châm biếm hoặc phản bác, với tư thế một người anh lớn tuổi - mình hơn Hiền mười tuổi chứ ít à, ấy là chưa kể đã từng trải nghiệm tình yêu, từng biết một người phụ nữ - chỉ cốt kích thích thêm cuộc bàn cãi. Tôi thích nghe giọng nói của Trang Hiền, trẻ trung trầm bổng, đượm màu xanh biếc của biển Nha Trang quê Hiền như trong trí tôi tưởng tượng.

Cái chân lý được tuổi mười bảy hết lòng bảo vệ, chẳng hiểu nó chính xác vững vàng được đến mức nào, chỉ biết là đầy tự tin, hào hứng. Càng nói, Hiền càng có vẻ tin chắc ở lý lẽ của mình, gò má càng ửng lên, mặt lóng lánh, có lúc Hiền khua cả hai tay làm điệu bộ để thêm sức mạnh cho lời nói. Một lúc nào đó, thấy hiền vừa đặt tay lên bàn, tôi liền ép bàn tay cô gái. Cô muốn hiểu thế nào thì hiểu! Phải, có lẽ tôi chỉ muốn làm dịu cái hăng tranh cãi của cô thôi. Cô nói nhiều rồi, hãy cho phép tôi có ý kiến lại chứ. Đang đà nói, Hiền không dừng lại. Tôi ép mạnh tay hơn. Và kìa, chẳng biết tại sao, giọng nói cô gái tự dưng bổ xiêu. Cứ như thế, những lý lẽ của cô, đang vững vàng là thế, bỗng nhiên bị hẫng mất chân đứng, đổ nghiêng dần. Giọng Hiền yếu ớt hẳn đi, rồi im bặt. Tôi lặng lẽ nhìn thẳng vào mặt Hiền. Dưới làn mi cong cô gái, tôi nhận thấy một ánh phân vân lưỡng lự. Tôi cầm nâng tay Hiền lên, dùng cả bàn tay kia của mình ép chặt. Khoé miệng Hiền chợt nhếch khẽ rung rung như cười, mắt mở tròn ngó thẳng vào mặt tôi. ý nói: Anh làm cái gì kỳ vậy. Cho anh thiệt là táo tợn.

Những đường phố Hà nội rợp bóng cây hoặc ủ bóng đêm trở thành những con đường thân thuộc đi về của tình yêu. Tình yêu với mọi miền hạnh phúc và mọi nỗi băn khoăn dần vật của nó, thổ lộ ra hay phong kín...

Đường Lý Thường Kiệt. Giêng hai năm ấy, tôi còn nhớ, rét nhiều. Mùa xuân còn chần chừ, chỉ mới đăng ký trên tờ lịch. Tiếng động thành phố trầm hẳn, như bịt bùng trong chăn. Lá cành run rẩy. Tôi và Hiền lặng lẽ sóng bước. Hiền cất tiếng:

"Anh coi, cây hai bên đường cũng chụm vào nhau để đỡ rét".
"ồ nhỉ".

Hiền đứng dừng, ngắm một chút, rồi bằng cái giọng Nha Trang nhẹ nhàng trầm bổng:
"Nó lại nghiêng mình nữa, anh thử nhìn coi".

Náo nức như vừa phát kiến điều gì mới, Hiền kéo tôi ra mép vỉa hè. Quả thật, hai dẫy cây hai bên đầu ngả chênh ra phía đường chút ít, vươn cành lá mịt mùng giao trộm vào nhau. Tôi ngạc nhiên: mình qua đường phố hàng trăm lần, chưa bao giờ để ý hiện tượng đó.

"Dễ thường người ta dụng ý trồng nghiêng ra một tý. Để lấy bóng mát cho mặt đường".
"Nếu vậy, phải cho nghiêng vào trong này mới phải chớ. Người đi đường cần bóng mát hơn xe cộ".

"Hiền nói đúng". Tôi bật cười. Giọng tôi ẩn ý trêu cợt: "Hiền bảo anh mắc cái thói tật trí tuệ, hay suy nghĩ lật ngược vấn đề. Chính em cũng hay "lật ngược". Nhưng lần này em hoàn toàn có lý".

Hiền quay sang, hai má đỏ hửng. Mắt Hiền nhìn tôi tha thiết:
"Em muốn thấy anh cười như vậy. Em, muốn giữ hình ảnh anh vui, khi anh ở xa em... anh có thấy gốc sầu to bự đằng kia không? Tán lá xùm xoè gục xuống, như cái đầu nặng trĩu, mấy cành to tự như cánh tay nâng đầu, mệt nhọc dữ!".

Mắt ánh tìa ranh mãnh, Hiền tiếp luôn:

"Nghĩ ngợi là hại người lắm đấy! Em nói vậy có đúng không? Em thấy anh hay buồn. Anh đang nghĩ gì vậy? Chắc anh lại sắp nói ra câu hỏi: Vì sao em yêu anh? Chán chết đi được ấy!".
"Hứa với em, từ rày anh sẽ không bao giờ lật lại câu hỏi "chán chết" ấy nữa. Tôi ôm một bên vai Hiền, kéo vào mình, khẽ thì thào. Miệng tôi ghé sát tai Hiền, tôi nghe hơi ấm của làn má hây hây đỏ, cảm thấy lớp lông tơ mượt mà trên bầu má ấy mơn man da mặt mình.

Bao nhiêu mùa xuân đã qua đi. Còn chăng lớp lông tơ óng mượt trên đôi má. Hồi nãy, trong con mơ thoáng gặp, anh có ấn tượng nước da Hiền, nếu đúng đó là Hiền, chưa hề có dấu hiệu gì khô ráp. Giá mình đặt lại được một cái hôn nhẹ, dù chỉ bằng tưởng tượng, trên bầu má vẫn còn vẻ mịn màng tươi tắn ấy. Anh rướn người ra trước thêm tí chút, làm như muốn nhìn rõ hơn phong cảnh bên ngoài. Bà béo bên cạnh bất thần cựa quậy, cũng rướn người ra, cái đầu tóc to sù uốn quăn của bà che lấp hẳn khuôn mặt thiếu phụ trẻ. Cái bà này, bà là ai mà kỳ cục. Con đáng mặt mệnh phụ không, hay chỉ là loại dân phê buôn bán tầm thường. Sao bà vô lý vậy. Mẹ chồng hay chị chồng mà nỡ bảo vệ cô ta kỹ càng đến thế.

Thốt nhiên, toàn bộ cái khối thịt của bà ta hung tợn xô ngang vào anh, mạnh không thể tưởng tượng được. bị đẩy bật, anh suýt ngã ngồi ra sàn xe, chỗ lối đi. Đến lượt anh ta lại xô mạnh vào khối thịt bà ta. Trong xe, mọi người nhốn nháo. Lát sau mới hoàn hồn. Chiếc xe khách muốn tránh vật cản gì đó, hình như một chiếc xe ngựa đột nhiên dở chứng, đã lái ngoạch qua ngoạch lại như điên. Suýt nữa xẩy ra tai nạn. Bình tĩnh lại, một ông hành khách nào đó, giọng Quảng Ngãi nặng chịch, oang oang kể chuyện có chuyến xe khách muốn tránh một con trâu vọt ngang đường đã đâm thẳng vào một cặp vợ chồng trẻ đèo nhau bằng xe máy. Cả xe bàn tán lao xao.

Một đêm tôi đi cùng Hiền trên đường phố vắng. Lúc tạt qua một ngã ba, bất thình lình có chiếc xe con lao tới. Tôi chỉ kịp lôi Hiền trở lại. Hú vía! vành chắn bùn phía sau gạt ngang qua hai người, cái gì đó móc rách toạc túi áo Hiền. Hiền chỉ cho tôi xem, vẻ như thú vị, ghé tai tôi thì thầm: "Có chết thì chúng mình cùng chết cả hai".

Lúc bây giờ, tôi còn nhớ như in, đầu tôi choáng vàng. Một kỷ niệm xót xa, chưa cũ gì lắm, vút xuyên qua cái dùi nung cháy bỏng. Từng có lần nào đó, một người con gái khác, trong một tình huống tương tự, đã nói với tôi y hệt như những lời nói ấy. "Có chết thì cũng chết cả hai". Chỉ khác, giọng cô ta réo rắt hơn, như còn run rẩy vì xúc động và sợ hãi. Đó là mối tình đầu của tôi. Tôi nghĩ rằng với cô ta cũng vậy. Bất ngờ, một thời gian sau, tôi nhận được bức thư chia tay của cô ta. Lời lẽ hết sức điềm tĩnh, tỉnh táo. "Em đã suy nghĩ kỹ. Xét thấy rằng chúng ta không hợp nhau. Thôi vĩnh biệt". Một tháng sau, cô ta lấy chồng. Hiểu rồi, hiểu rồi, cô em bé nhỏ của tôi ạ, đối với cô, tôi chỉ là vật đối chứng trong một trò thí nghiệm tình cảm lạnh lùng.

Cuộc trò chuyện lao xao trên xe vẫn chưa dứt. Có lẽ mọi người đã bị cái lắc xe đột ngột làm tỉnh táo hẳn lên. Bà mệnh phụ sửa lại chỗ ngồi, có cảm tưởng bà cố dán chặt người thêm vào lưng ghế và đệm ghế. Phía bên kia, Trang Hiền của anh cũng đã ép chiếc làn trắng ngà vào bụng mình, hai bàn tay ôm lấy nó. "Có chết chúng mình cũng chết cả hai". Trong đầu anh chợt nẩy một giả thiết vui vui. ừ, giá như lúc nãy đã xẩy ra tai nạn thực, xe đổ nhào xuống ruộng hoặc đâm sầm vào gốc cây, câu nói của Hiền mười mấy năm về trước, một ước vọng, một lời nguyền, bỗng dưng thành sự thực, thì sao nhỉ. Mình sẽ vui hay buồn. Hiền sẽ buồn hay vui. Ôi, ngớ ngẩn. Chết cả hai rồi, còn gì nữa mà nói chuyện vui buồn!
Giây phút này Hiền đang nghĩ gì. Hiền có sực nhớ đến cái lời nguyền đó không, nếu người ngồi đó đích thực là Trang Hiền của anh. Lúc nãy Hiền có hồi hộp sợ hãi lắm không ấy nhỉ. Dù sao cơn nguy hiểm cũng đã qua rồi. Hai bàn tay Hiền lúc này đan nhau bình thản, đoan trang, mấy ngón còn tròn mọng trắng hồng bên cạnh màu ngà chiếc làn và màu thiên thanh tà áo.

Cái đêm đầu thu không thể nào quên ấy, tôi ngồi cạnh Hiền bên hồ nước, ánh sáng rọi xuống khiến làn nước đêm xanh thẫm càng lung linh. Thốt nhiên tôi cảm thấy Hiền khẽ rùng mình.

"Em lạnh hay sao?" Tôi ân cần hỏi.

"Không ". Hiền đáp. "Nhưng từ nhỏ em đã có tật vậy. Mỗi khi chợt thấy một vệt sao băng, em đâm bồi hộp. Cứ nghĩ cái chấm sáng nhỏ nhoi ấy rớt vào giữa mung lung bầu trời, em hơi sở sợ, cảm thấy cô đơn, như là ớn lạnh nữa ấy".

"Cả giờ nữa, lúc có anh bên cạnh?" Tôi hỏi, hơi có tí trêu chọc.

"Em chẳng hiểu làm sao nữa. Biết đâu chẳng càng ớn lạnh hơn ấy chứ". Hiền đáp, đùa trêu lại. "Vì có ai thăm dò được hết cái mung lung tình cảm con người".

Tôi lặng im. Hiền liền có một cử chỉ làm lành.

"Anh coi, trống ngực em còn đập đây nè".

Hiền cầm tay tôi đặt lên phía tim mình. Dưới làn áo lụa, ngực cô gái căng vồng. Tim tôi hồi hộp. Từ lúc nào không biết, Hiền để nhẹ nhàng cởi cúc áo của mình, hơi thót người lại, tôi cảm thấy tay mình tiếp xúc với làn da mát rợi trên mỏm đồi xuân mơn mởn. Nghe rõ cả tim mình đập mạnh, thình thịch, trong trái tim cô gái. Hồ nước bỗng chao nghiêng, nghiêng ngả.

Bà mệnh phụ. Lại bà mệnh phụ. Nhưng lúc này tôi thông cảm. Bà chẳng hề có ý định phá ngang dòng mơ tưởng loăng quoăng rối rắm của tôi, chắc thế. Chẳng qua phần ghế quá chật đối với cái khối lượng quá cỡ của bà. Tôi đã tự nguyện dịch gần một nửa người của tôi ra khỏi chiếc ghế của tôi rồi đấy. Mong bà đừng quá lấn ép người ngồi cạnh, phía bên kia, tội nghiệp.

Tôi và Hiền ngồi trên vệ cỏ lẳng lặng ngắm mặt hồ như vậy có lẽ rất lâu. Mắt Hiền đen huyền, dường như cũng có ánh sao lung linh trong ấy. Dưới bàn tay ấp ôm mơn trớn, tấm ngực trẻ thanh tân càng nhô cao, căng nhọn, tựa hai hòn núi đá thuở hoang sơ. Trống ngực tôi phập phồng. Tôi nẩy ý liều lĩnh táo tợn, lần tìm đến những miền hoàng dã thâm u khuất vắng hơn.

"Đừng, đừng anh, em sợ".

Nghe Hiền thì thào, giọng đứt quãng. Vai Hiền khẽ rung lên như hồi nãy. Bỗng khắp người cô gái nổi cơn run rẩy dữ dội, khi tôi cố đẩy tới cuộc phiêu liêu mạo hiểm, Tôi đâm hốt hoảng, có cảm giác như Hiền có thể sắp choáng ngất vì sợ hãi. Vội đưa cả hai cánh tay giữ ghì lấy thân hình cô gái. Cơn run rẩy dịu dần. Trán tôi từ lúc nào cũng toát mồ hôi lạnh.

"Ta về thôi, em nhé. Sương xuống nhiều rồi". Tôi nghe mình nói, giọng lúng búng chen xấu hổ và hối hận.

Hiền vịn vào vai tôi yếu ớt đứng dậy.

Trưa hôm sau, ở cơ quan về, tôi tìm thấy mẩu giấy nhỏ luồn qua khe cửa. Tôi hồi hộp mở xem. Nét chữ của Hiền. Vẫn thoáng, đẹp, nhưng dường như có in vết run rẩy, tôi hình dung thế. Hiền nói Hiền viết cho tôi mấy chữ này lúc bốn giờ rưỡi sáng, sau một đêm không hề chớp mặt. Hiền muốn tôi thông cảm và tha thứ (Ôi, chính tôi phải ngàn lần xin Hiền tha thứ cho tôi mới phải). "Đêm nay anh hãy đến với em, anh nhé".

Đêm hôm ấy tôi không đến. Vì lý do gì, cũng chẳng còn nhớ thật rõ. Sau này hai ba lần Hiền vặn hỏi, hai ba lần tôi đáp là mình tự dưng nổi một cơn đau đầu dữ dội. Điều đó nếu không hẳn là sự thực, ít ra cũng là sự thực do tôi mường tượng sau nhiều lần nhắc đi nhắc lại.

Tôi không còn giữ một bức thư nào của Hiền. Tất cả đều đã được thả trôi theo dòng nước. Vì sao vậy, chính tôi cũng không hiểu nổi. Hiền viết cho tôi khá nhiều thư, khi chỉ mấy dòng ngắn, khi ba bốn trang liền. Hiền khoe học tốt, trái với điều tôi lo lắng là Hiền có thể sao nhãng việc học tập. "Em cảm thấy như dạo này trí óc mình ngày càng minh mẫn láng hơn. Toán giải khá nhanh. Cô giáo văn còn khen em làm bài hết sức tình cảm". Hiền kể một vài kỷ niệm chạy giặc hồi thơ ấu ở quê hương, chuyến đi tàu biển ra Bắc tập kết cùng ông chú. "Em muốn anh thuộc lòng từng chi tiết cuộc đời em. Anh đừng cười là nó còn quá ngắn, chẳng có gì đáng kể. Em vui thích mà nghĩ rằng tâm hồn anh". Hiền đòi tôi cũng phải "trả nợ", kể cho Hiền nghe quá khứ của mình, những buồn vui, những cuộc tình duyên cũ "nếu có", mà chắc là phải có. Hứa với anh, em không ghen đâu, chỉ muốn anh kể để vơi bớt nỗi buồn mà em đoán nguồn gốc sâu xa là ở đó". Tiếp đến những bức thư nồng nàn táo bạo hơn "Em từng nói em muốn anh thuộc rõ cả cuộc đời em. Em muốn anh cũng thuộc toàn bộ thân thế em, vì tất cả em là của anh, của riêng anh tất cả". "Ôi, cái ngày sinh nhật kỳ diệu! Em đã bước sang tuổi mười tám với một kỷ niệm không bao giờ quên. Đêm qua chúng mình đã có được cả một đêm cho nhau trọn vẹn. Suốt ngày hôm nay em lười biếng nằm dài, ngửa mặt lên trần suy nghĩ, nhớ lại và ước mơ. Lúc này ước gì có một đứa con của anh nằm gọn trong bụng mình. Một đứa con trai giống hệt anh. Nó sẽ là cái cầu nối, một lời thề nguyện gắn cả cuộc đời và linh hồn hai chúng ta mãi mãi, một trăm năm, một nghìn năm, một triệu năm ánh sáng".

Những lá thư dài ngắn ấy, tôi đọc đi đọc lại hầu như thuộc, với niềm xúc động khi êm ái, khi bừng bừng mãnh liệt. Tôi áp mảnh thư vào ngực, nhắm mắt thầm nhớ lại những giây phút êm đềm. Nhưng khi xúc cảm trào lên quá mạnh, khiến hai thái dương đập phập phồng, tôi cảm thấy bất chợt xen vào một nỗi lo âu buồn bã, thậm chỉ bàng hoàng, một phản ứng tâm lý mà tôi không thể giải thích nổi, lại càng không thể nào nén nổi. Một buổi sáng xuân đẹp trời, nhân đi công tác bằng ca nô trên sông Bạch Đằng, tôi đã thả tập thư của Hiền từng tờ từng tờ một cho bay theo gió rồi rơi xuống nước. Dòng nước mùa xuân này xanh trong leo lẻo, đẹp quá chừng, hy vọng nó sẽ đưa những lời thư ấy ra biển rồi ra tận đại dương. Tôi dõi nhìn những vuông giấy trắng trao nghiêng như cánh chim bập bềnh trôi nhanh ra phía sau lái với một tâm trạng hầu như thanh thoát, tuy vương chút bùi ngùi. Cái gì diễn ra trong tôi vậy. Dường như tôi đã e sợ và muốn ngăn ngừa trước một sự ràng buộc hoặc trách nhiệm nào đó, hoặc một sự dang dở; chia lìa, thậm chí cơn vỡ mộng mà cái tạng, cái khí chất của tôi sẽ không thể nào chịu đựng nổi. Yêu tôi nồng nhiệt, biết đâu Hiền chẳng có thể cắt đứt phũ phàng. Nói gì một triệu năm hoặc một trăm năm. Mọi sự ở đời cái gì chẳng qua đi như ngày đêm dưới cầu nước chảy, mọi điều tất phải biến đổi, nhàm chán, nhạt phai. Hiền yêu tôi thật sự hay chỉ là yêu tình yêu, yêu chính mình qua một mối tình. Tôi đã có gì đặc biệt, có gì xứng đáng. Những lời lẽ bồng bột say sưa ấy Hiền viết cho tôi hay viết để say sưa với chính mình. Tôi chẳng qua chỉ là cái cớ.

Lại bà mệnh phụ. Lần này thì cái bà béo ị ấy không còn làm sao chịu đựng được nữa nồi. Bà xoay người, thúc cả cùi tay vào hông anh, đột ngột đứng dậy. Bà nhoài người nhìn ra phía cửa sổ, bỗng quay lại hét toáng về phía người lái xe: "xuống! xuống! Cho tôi xuống đây! Dừng lại! Cho tôi xuống!" Giằng cái hông đồ sộ lên đùi anh, bà cúi quơ cái túi giả da to kềnh màu hồng khá đẹp dưới chân ghế, rồi chẳng cần xin lỗi, lăm le định len ra. Anh vội nhổm dậy, đứng tránh ở lối đi. Bà ta vừa lách khỏi, thốt nhiên anh thấy mình đứng đối mặt với thiếu phụ áo thiên thanh. Hiền! Trời ơi, Hiền cũng xuống đây sao? Cái thị trấn này là đâu vậy? Quê chồng hay chính quê Hiền?

Thoáng giây hồi hộp, Hình như hơi thở của anh, nóng hổi, phả cả vào cổ và gáy người thiếu phụ, mấy sợi tóc dài khẽ phơ phất trên làn da trắng mịn. "Có phải đúng Trang Hiền của anh đấy không ?". Tiếng kêu ấy vang vang trong đầu óc anh, tuy anh không hề mở miệng. Hiền cũng đã nghe thấy chăng? Người thiếu phụ khẽ quay đầu, nhìn thẳng vào anh. Đôi mặt mở to, vẻ bỡ ngỡ, y như mắt Hiền ngày nào khi anh làm cái việc táo bạo ép bàn tay mình lên bàn tay cô gái. Nhưng lúc này ánh mắt ấy dường như thoáng buồn, thoáng nghiêm lạnh. Đôi môi, vẫn còn hồng mọng, nhưng mím mím, lặng yên, hoàn toàn xa lạ. "Nếu đúng là Hiền, sao Hiền không nói ví tôi một lời nhỉ. Hiền hãy trách cứ tôi đi, nói thẳng sự thật vào mặt tôi đi. Tôi đã quá tính toán chăng, đã hèn yếu đến mức độ trở nên hèn nhát vị kỷ chăng. Sao Hiền vẫn cứ câm lặng lạnh lùng như vậy?"

Đầu anh choáng váng. Tiếng đập thình thình vào thành xe của người lái phụ ngồi phía sau giục đi, anh tưởng như tiếng đập của trống ngực mình dội lên tận óc. Chiếc xe ca lại khởi động, anh lặng người, vội bám hai tay vào thành ghế hai bên lối đi. Tuy nhiên vẫn cố ngoái nhìn ra phía sau, qua khung kính ở lưng xe, cố tìm lại hình bóng chiếc áo màu thiên thanh. Lúc đầu không thấy gì. Sau đó hiện ra trong khung kính dáng thanh mảnh nhỏ nhắn của người thiếu phụ, toàn một mầu tím sẫm, nó nhỏ đi nhanh rồi mất hút.

Cho đến bây giờ, thêm mười mấy năm nữa, anh vẫn chưa nhớ được cái màu tím sẫm lạ lùng ấy là do ánh mắt mình đã mờ đi, thẫm lại hay đó là do màu tấm kính.276


Powered by Blogger.