Sau khi khám cho một bệnh nhân, bác sĩ nói:


- Bà hoàn toàn khoẻ mạnh. Tôi chỉ khuyên bà nên ra những nơi có không khí trong lành hơn, còn mùa đông, bà nên mặc ấm hơn chứ đừng ăn mặc hở hết cả cổ ra như thế này.

Khi bà về nhà, người chồng hỏi:

- Bác sĩ bảo sao hả em?

- À, bác sĩ khuyên em mùa hè nên đi nghỉ vùng biển, còn mùa đông thì nên mặc áo lông cáo.
1610




Chị ta buộc tội tôi là thủ phạm phá hoại tổ ấm gia đình của chị ta. Chị ta đay nghiến tôi là quân xỏ lá lưu manh lừa đảo, ngoài mặt lúc nào cũng ra vẻ hiền lành vô hại nhưng trong bụng một ruột điếm đàng ăn cháo đái bát bội nghĩa vong ân, ngay từ đầu đã toan mưu tính kế giăng bẫy và tìm cách xô cả hai vợ chồng chị ta vào bẫy.

Chị ta rủa tôi là loài mèo mả gà đồng cù bơ cù bất lang thang đầu đường xó chợ, ở đâu không biết đã bò vào nhà chị ta, ngấm ngầm mưu mô quyến rũ mê hoặc chồng chị ta. Chị ta mắng tôi là loại lẳng lơ xảo quyệt, là kẻ thứ ba đã cố tình chen vào ly gián, gặm nhấm, đầu độc tình cảm nồng nàn thắm thiết mà vợ chồng chị ta đã dày công vun xới.

Không đúng. Oan cho tôi, chị ta loạn trí mất rồi, phát điên phát rồ, nói năng lảm nhảm chẳng còn tỉnh táo. Các vị đừng để cho nước mắt của chị ta, những thống thiết nức nở, những xanh xao nhợt nhạt, đầu bù tóc rối của chị ta lay động lòng thương. Chị ta đơm đặt vu khống cho tôi đấy. Hoàn toàn vu khống. Các vị nghi ngờ tôi ư? Thế thì làm ơn hãy lắng nghe tôi kể lại toàn bộ sự thật nhé!

Vâng, tôi cam đoan chỉ kể toàn sự thật.


* * *

Tôi còn nhớ rất rõ hôm ấy là một ngày đầy nắng. Nắng rất đẹp. Những sợi nắng mong manh, óng ánh như tơ đan vào nhau khít khao thành một tấm lưới mỏng nhẹ, phủ lên khắp các đường phố nhà cửa một màu vàng bóng bẩy.

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh. Người đàn ông râu ria, dáng vẻ bụi bặm. Anh bước thẳng đến đối diện với tôi, thận trọng đỡ lấy tôi và thật dịu dàng nâng nhẹ tôi trên tay. Hơi ấm từ bàn tay anh truyền sang tôi với nhịp phập phồng rất nhẹ của những mao mạch đang thở dưới làn da mềm mỏng. Anh chăm chú ngắm nghía tôi trong lúc lắng nghe ông chủ tôi giới thiệu lai lịch của tôi.

Anh nhìn vào mắt tôi. Một luồng sáng lung linh nhè nhẹ đi xuyên qua tôi. Hình như tôi đã run lên, một rung cảm mơ hồ kỳ lạ không sao hiểu được. Hay có lẽ vì tôi được cấu tạo từ những tế bào nhạy cảm nhất, có tài ghi nhận những cảm xúc tinh tế nhất nên tôi đã nhận ra những dấu hiệu rung động đầu tiên từ mối giao cảm vừa nảy sinh giữa anh và tôi chăng?

Cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chị ta. Chị kề sát bên anh, gần như lọt thỏm vào lòng anh, duyên dáng đáng yêu như một chú mèo. Căn cứ vào chất lượng và độ dày của thứ ánh sáng bao quanh hai người, tươi tắn trong trẻo và ánh vàng, tôi biết tình cảm của họ dành cho nhau đang thời kỳ đầy đặn sung mãn như trăng mười sáu.

Ông chủ vỗ nhẹ lên người tôi, thì thầm lời chào tạm biệt. Chính chị đã đưa tay sốt sắng đón lấy tôi, âu yếm bảo bọc tôi, hớn hở đưa tôi về nhà. Thái độ của chị lúc ấy quả thật rất thân thiện, thương yêu, thậm chí trân trọng nữa. Nào có ai ngờ cũng chính giây phút ấy, cả ba chúng tôi đã vô tình dắt nhau vào một cuộc cạnh tranh, một trận ganh đua giành giật đầy dằn vặt và xâu xé.

* * *

Đêm hôm ấy, bên cạnh giường ngủ của hai người, tôi nghe thấy những tiếng động đặc trưng khi một người đàn ông biểu lộ tình yêu với một người đàn bà. Đó là tiếng sột soạt của quần áo lặn vào chăn nệm. Là tiếng khúc khích của môi mềm vùi vào da thơm. Là tiếng lắc rắc của tơ tóc bối rối xoắn xuýt lấy ngón tay. Là nhịp điệu chuyển động của những đốt xương càng lúc càng nhịp nhàng dồn dập. Là tiếng róc rách của máu cuồn cuộn chảy dồn về tim, sôi nổi ào ạt rồi trầm lắng dịu dần. Tiếng va đập âm âm của cánh tay rơi xuống gối uể oải. Tiếng cóc cách rất nhẹ của toàn thân duỗi dài mệt rũ.

Tôi nằm im lắng nghe tiếng xào xạc của đôi cánh mi nhẹ nhàng khép lại. Những âm thanh cuối cùng của bản giao hưởng trôi qua trong đêm.

Buổi sáng, động tác đầu tiên khi anh thức dậy là khẽ chạm vào tôi, ôm lấy tôi và lần lượt gỡ bỏ những lớp áo trên người tôi, soi mói mọi ngóc ngách cơ thể tôi. Những ngón tay anh lần mò sờ sẫm, hăm hở tìm kiếm khám xét từng khe kẽ núm nút. Tôi lại run lên, lần này là vì sự tiếp xúc quá ư gần gụi. Hơi thở anh vờn quanh tôi nóng rực, bám vào da tôi rờn rợn nhột nhạt. Tôi ngượng ngùng vì những xúc cảm lạ lùng thầm kín đâu đó trong tôi bỗng nhiên bùng vỡ tỏa lan tràn trề không sao kiềm nén, đành để lòng mình bật mở phơi bày trọn vẹn thật thà tinh khôi.

Chị trở mình thức giấc. Người đàn ông tham lam không biết giấu giếm tình cảm vội giấu tôi vào lòng và kín đáo ra hiệu cho tôi. Tôi ngoan ngoãn chiều anh, tham gia trò chơi đồng lõa để rồi chẳng bao lâu sau tôi được tận hưởng niềm vui cùng anh chứng kiến tác phẩm chung của chúng tôi chào đời. Một đường cong mềm mại hình dấu ngã mang khuôn mặt ngái ngủ của người đàn bà không chỉ vẽ lên khoảng tường trắng đơn điệu nơi đầu giường một khung cảnh nên thơ mà còn phả vào gian phòng làn hơi êm dịu huyền ảo.

Phải nói rằng đã từng có thời kỳ rất tuyệt vời khi cả ba chúng tôi hết sức hòa hợp gắn bó với nhau, thật lòng mong muốn luôn được ở bên nhau. Mãi mãi và mãi mãi. Cả ba chúng tôi đã cùng nhau tạo ra những tác phẩm nho nhỏ xinh xắn dễ thương. Những tập ảnh màu và đen trắng, chân phương hay kỹ xảo, tự nhiên hay lồng ghép, bất ngờ hay dàn dựng. Khắp nhà, nhìn đâu cũng thấy hình ảnh của chị. Trên tường là chị tựa cửa suy tư trong bóng hoàng hôn. Nơi kệ sách, tà áo chị chấp chới như cánh chim đang bay trong gió lộng. Trên bàn làm việc của anh, chị tươi cười bên khóm lan hay lúng liếng dưới vành mũ.

Ông chủ tôi, tất nhiên bây giờ ông không phải là chủ tôi nữa nhưng tôi vẫn thích gọi ông là ông chủ, ghé thăm gia đình chúng tôi. Vâng, chẳng phải anh và chị đã mặc nhiên xem tôi như một thành viên thân thiết trong gia đình rồi sao? Hai người đàn ông ngồi với nhau hàng giờ nói mãi những chuyện xảy ra ở đâu đâu rất xa vời về những người rất xa lạ mà chị và tôi chẳng hề quen biết. Ví dụ như Kishin Shinoyama là ai hoặc Daisaku Ikeda là người của xứ sở nào? Thỉnh thoảng chị lịch sự quay đi kín đáo che miệng ngáp, cuối cùng lặng lẽ đứng lên bỏ vào nhà.

Không một ai để ý đến khoảng không trống vắng xuất hiện nơi vị trí của người đàn bà. Hai kẻ đối thoại vẫn tiếp tục say sưa trầm trồ sự đơn giản mà sang trọng của những bức ảnh thuần túy một gam màu trắng xóa. Họ không tiếc lời thán phục người đã xếp đặt bố trí nguồn sáng quá khéo để những vệt xám mờ chuyển tiếp tinh tế khiến cho hình khối của những cái đĩa trắng, tách trắng vẫn nổi bật lên trên nền phông trắng với bóng đổ và đường viền thật thanh thoát.

Họ thắc mắc, phỏng đoán và tranh cãi về kỹ thuật thực hiện bức ảnh chụp những cánh sen trắng đang run rẩy đung đưa, ẻo lả nghiêng mình theo chiều gió nhẹ. Ảnh chụp mà màu sắc ánh sáng mơ mơ huyền hồ như tranh vẽ, tranh vẽ mà động thái chi tiết rõ ràng tỉ mỉ hiện lên không thiếu một đường gân mỏng mảnh li ti. Một phong cảnh sống động mà lại vô cùng tịch mịch.

Anh kể cho ông chủ tôi nghe kỷ niệm về những chặng đường. Thì ra anh là người thích đi và đã đi rất nhiều. Thời gian qua chị đã làm được một việc phi thường là độc chiếm trái tim và níu chân anh một chỗ quá lâu. Anh cảm thấy trong người dường như đang có những triệu chứng báo hiệu căn bệnh thích lang thang sắp tái phát. Anh cao hứng thổ lộ ý định về một chuyến đi. Giờ đây, mỗi khi nhớ lại tôi cho rằng chính chuyến đi này đánh dấu một thời kỳ mới trong cuộc đời của anh, hay chính xác hơn cả tôi và chị nữa. Đó là thời kỳ xuất hiện những vết rạn dù chỉ lờ mờ nhưng cũng đủ cho ánh sáng bao quanh hai người cứ thất thoát, mỏng đi và lu mờ dần.

Trong một lần giận dữ thóa mạ tôi, chị ta cũng nhắc đến chuyến đi này như thể là thời điểm tôi bắt đầu bộc lộ bản chất xấu xa của kẻ thừa cơ lợi dụng nước đục thả câu.

Không đúng. Bản chất của tôi dẫu chưa hoàn hảo nhưng cũng hoàn toàn không như lời cáo buộc của chị. Trong lúc chị chờ anh phải dỗ dành nài nỉ, dậy sớm lôi chị ra khỏi giường thì tôi đã gọn gàng tươm tất. Trong lúc chị vật vờ lơ mơ như người máy sắp hết pin thì tôi rất tươi tỉnh, lẹ làng. Đường lên cao nguyên tuy ngoằn ngoèo thăm thẳm, đôi chỗ còn gập ghềnh dằn xóc nhưng dọc đường bao giờ tôi cũng luôn theo sát bên anh, không lúc nào rời, nhanh nhảu vâng lời giúp anh ghi lại những hình ảnh cảnh sắc trong lúc chị chán nản đếm bước loanh quanh trông đứng trông ngồi, càng lúc càng tỏ ra sốt ruột.

Với tôi, thật là một chuyến xuất du thú vị vì chưa bao giờ tôi gần anh và hiểu anh đến thế. Với chị, quả là một hành trình tra tấn kéo dài dằng dặc với bao nhiêu ê ẩm mỏi mệt rã rời. Thế mà lúc đến nơi anh còn làm chị tuyệt vọng đến cùng cực khi thông báo cả bọn sẽ qua đêm trong cảnh không nhà. Lần ngủ bụi đêm đó trở thành một ký ức thơ mộng đẹp đẽ không bao giờ mờ phai trong bộ nhớ của tôi. Đến tận lúc này tôi như vẫn còn đang nghe tiếng gió thổi vi vút, tiếng rì rào không dứt của ngàn thông, tiếng lép bép của củi khô phụ họa tiếng lửa phun từng hồi phừng phực. Tôi ước gì được sống lại khoảnh khắc giấu mình trong ngực anh, rúc trong hơi ấm của anh mặc cho ngoài trời căm căm rét lạnh.

Cuối cùng chị cũng thôi không ca cẩm trách móc anh nữa, sau khi tuyên bố đây là lần đầu cũng là lần cuối chị theo anh đi nghỉ mát cái kiểu điên khùng này.

Tôi không hiểu nổi sao người ta có thể thản nhiên cuộn tròn trùm chăn kín mít, nhắm mắt ngủ được giữa không gian huyền hoặc như thần thoại này? Bỏ qua tiếng thông reo kỳ dị như tiếng hát của dàn đồng ca ma quái lúc khoan lúc nhặt, lúc nhỏ lúc to xì xào vang vọng suốt đêm? Bỏ qua bầu trời đầy sao giăng kín quanh mình với những ngôi sao màu hồng, màu trắng, màu lục? Cả những vì sao màu xanh lơ rất nhạt, khiêm tốn đến nỗi gần như lẫn vào ánh sáng của những vì sao khác. Ngôi sao nào cũng long lanh nhấp nháy như đang nheo mắt tinh nghịch nhìn xuống trần gian.

Trên đỉnh núi cao có một người trần gian đang bơ vơ lặng ngắm những bức tranh bí ẩn vẽ bằng ánh sáng, thì thầm thủ thỉ kia là thắt lưng của chàng hiệp sĩ. Tôi dáo dác: đâu nào anh? Kia kìa, là ba ngôi sao thẳng hàng với nhau đó, thấy chưa? Em thấy rồi. Bầu trời mùa đông đẹp nhất là sao Hiệp Sĩ, Bắc Đẩu cũng không bằng đâu. Thế à? Người ta còn gọi nó là sao Sâm, hãy nhìn ngôi sao sáng nhất kia đi, so với nó mặt trời chỉ là hạt đậu. Thật không, sao trông nó nhỏ bé thế? Ừ, nhỏ bé thế thôi vì nó cách xa trái đất đến ba trăm năm ánh sáng. Trời ơi, thế mà em cứ tưởng chỉ cần rướn mình lên một chút, giơ tay cao một chút là có thể chạm vào nó được rồi.

Anh cười khẽ. Chị cựa mình cằn nhằn trong bóng tối: sao không chịu ngủ đi, làm gì mà cười một mình giữa đêm khuya như thế, điên à?

Kể từ ngày đó tôi biết mình không thể rời xa anh được nữa. Và anh cũng vậy. Anh cũng cần tôi, như người ta thường nói, hai chúng tôi đã là một thể thống nhất không thể tách rời, tâm ý tương thông luôn luôn truyền động cộng hưởng với nhau mọi cảm xúc.

Thế đấy, từ đó chúng tôi không rời nhau nửa bước, đi đâu anh cũng đưa tôi theo và dĩ nhiên tôi sẵn lòng đánh đổi mọi thứ với bất cứ giá nào để luôn được ở bên anh bất kỳ nơi đâu trên thế gian này. Tôi theo anh đến miền gió cát dù cát khô làm tổn thương tôi. Tôi theo anh xuống biển dù biển mặn làm tôi phát bệnh. Tôi không ngại ngần dậy sớm thức khuya, dầm mưa dãi nắng, vui vẻ có mặt mỗi khi anh cần có tôi.

Chị bắt đầu kêu rêu anh thiếu công bằng, quan tâm đến tôi quá đáng, dành thời gian cho tôi quá nhiều. Chị hầm hứ ngấm nguýt mỗi khi anh mua áo đẹp cho tôi, sắm sửa cho tôi đồ dùng trang điểm, dành riêng cho tôi một không gian biệt lập, tiện nghi sáng sủa và ấm áp. Chị nhiếc móc anh chăm sóc cho tôi chẳng khác nào chăm cho nhân tình, tưng tiu tôi còn hơn cưng yêu vợ.

Lần này chị ta nói đúng. Chúng tôi cần nhau quá mất rồi, yêu nhau quá mất rồi, thời gian bên nhau luôn luôn quá ngắn, không bao giờ đủ. Cả tôi và anh đều biết chị ta đã nổi cơn ghen nhưng thật không ngờ lòng ghen của chị ta lại ghê gớm đến thế.

Hôm ấy, chúng tôi đang rình chờ chộp bắt một chi tiết cho tác phẩm “Thanh đình điểm thủy” anh ấp ủ đã lâu. Rong ruổi nhiều ngày rồi chúng tôi mới bắt gặp một cánh chuồn chuồn đẹp đến thế, một bờ ao mướt xanh như thế và nguồn sáng thích hợp đến vậy. Thế mà đúng lúc chú chuồn chuồn vừa thò chân chạm mặt nước, từng vòng sóng nước bắt đầu lan ra thì điện thoại reo lên inh ỏi. Chuồn chuồn ta giật mình thảng thốt bay lên. Anh chỉ còn biết thở dài thất vọng, buông tay tiếc ngẩn.

Thẫn thờ trở về nhà, hồn vía vẫn còn vấn vương trên cánh chuồn chuồn không hề để ý đến đám đông đang ồn ào huyên náo trong nhà, anh đi thẳng vào phòng ngồi thừ ra. Bước vào thấy anh đang gò lưng cặm cụi chăm chút cho tôi, chị ta cay đắng tuôn ra những lời chì chiết. Đi hoang cả tháng gọi mãi không buồn về, đú đởn với nhau ngoài đường chưa chán hay sao mà về đến nhà còn không chịu ra tiếp khách khứa, ngồi lì ở đây ôm mãi cái máy chết tiệt. Làm ăn sinh sống không lo, ngày tư ngày tết cũng không chịu ở nhà sum họp vợ con. Chăn êm nệm ấm không muốn, lại thích lăn lóc ngoài bờ ngoài bụi, lúc nào cũng xộc xệch bẩn thỉu như thằng ăn cắp.

Này thì trăng sao. Chị giật tung cái áo của tôi. Này thì gió máy. Chị gạt phăng tất cả phụ tùng của tôi. Này thì nghệ thuật. Chị hung tợn giằng lấy tôi, quật mạnh tôi xuống đất. Cơ thể mỏng manh yếu đuối của tôi không sao chịu nổi cú va chạm dữ dội. Thế là tôi vỡ tan. Thế là anh chết điếng, đau khổ như cả mùa xuân cũng vừa vỡ nát, tan tành. Thế là những tia sáng yếu ớt còn leo lét cháy xanh xao giữa hai người cuối cùng cũng tắt ngấm, để lại một khoảng trống mênh mông kinh hoàng.

Một thời kỳ mới đã mở ra giữa đôi vợ chồng. Thời kỳ của lạnh lùng xa cách, oán hận và đầy ắp căm hờn.

* * *

Từ bao lâu nay, người ta vốn coi tôi như một công cụ, một thứ đồ dùng không hơn không kém. Chỉ có anh, anh mới hiểu rằng dù chỉ là một cái máy ảnh, tôi vẫn không hề vô tri vô giác. Tôi vẫn có một tâm hồn. Tâm hồn tôi, ngoài anh ra còn ai hiểu thấu?

1483




Một cậu bé đi học về và khoe với bố:

- Con đã nói về bố trong bài tập làm văn của con đấy, bố ạ...

- Ồ, thế hả? Đề tài của bài văn đó như thế nào?

- À, thầy bắt chúng con tả lại người anh hùng của mình, thần tượng trong cuộc sống của mình ấy mà...

- Tốt, bố rất tự hào về con, thế con đã viết gì?

- Con nói rằng bố rất khỏe mạnh, đẹp trai, thông minh, lịch sự... Con thực sự rất hãnh diện về bố!

- Bố hoàn toàn không biết là con đánh giá bố cao như thế...

- Không đâu ạ, chỉ là vì con không viết được tên của diễn viên điện ảnh Mỹ Arnold Schaerwzeniger, à không phải... Schiaerzeggaer... hay là Schaerwzeniger gì đó...
1108




Con người là một con vật biết suy nghĩ, biết tư duy; Vì thế, dù bận rộn với bao khó khăn trở ngại trong cuộc sống; dù tin tưởng vào tôn giáo này hay tôn giáo khác, hoặc vô thần đi nữa, con người cũng phải ít nhất một lần trong đời đặt câu hỏi rằng: Tại sao mình lại sinh ra ? Tại sao con người lại đau khổ ? Tại sao trên cõi đời này lại có kẻ giàu người nghèo, và đôi khi sự giàu có không phải là do công lao khó nhọc tạo thành, mà là do do những hành động gian tham, tàn ác tạo nên. Ðiều khó giải thích hơn nữa là tại sao kẻ ác đôi khi lại được trường thọ, hạnh phúc, sang giàu, còn người thiện lương, hay giúp đời, cứu người mà thường gặp nạn, khổ đau, nghèo nàn hay yểu mệnh? Lại có kẻ mới chào đời đã mang dị tật, hoặc đui, mù, câm, điếc, bại, liệt, thiếu hụt tay chân v.v... Nguyên nhân nào đã sinh những trường hợp lạ lùng và vô cùng trái ngược như thế ? Nếu loài người được Thượng Ðế toàn năng sáng tạo, thì tại sao Ngài lại thản nhiên trước những bất công vô lý ấy ?

Tất cả những câu hỏi nêu trên, có lẽ sẽ được lý giải phần nào qua sự tìm hiểu, nghiên cứu và nhận định, soi sáng của các nhà nghiên cứu lỗi lạc về những hiện tượng luân hồi, tái sanh, nghiệp quả. Những nhà nghiên cứu này phần lớn là những khoa học gia, những người được xem như đã mạnh dạn bước qua ngưỡng cửa giới hạn của khoa học thực nghiệm để tiến vào thế giới tâm linh có tánh cách siêu nhiên kỳ diệu .....

****** Xin mời các bạn đọc những câu chuyện có thật đưới đây để hiểu rõ thêm về luân hồi, nhân quả, và tiền kiếp... hậu kiếp...

****** Những câu chuyện này được trích từ "Những Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Và Hậu Kiếp" của Ðoàn Văn Thông biên soạn và nhà sách Nguồn Sống xuất bản.


NHỮNG NGƯỜI TRỞ VỀ TỪ CÕI CHẾT

Sau đây là tài liệu... đã thu thập được từ những người đã gần gũi với cái chết hay đã có lần sống lại, đã trải qua một đoạn đường vượt xa ranh giới cõi sống và cõi chết, nghĩa là đã bước đi một khoảng đường qua bên kia cửa tử để rồi vì một lý do nào đó lại quay về... và đã sống lại. Sau đây là ba trường hợp của những người chết đi sống lại đã mô tả... và đã đăng tải trong báo Tiền Phong 1992...

1. Một người tên là Iva Brawn, sinh sống ở Lamirada (Cali) đã bị tai nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người này bị xe hất tung đi rất xa và ngất xỉu. Trong thời gian mê man như chết đó, người này đã thấy nhiều hình ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu chói lòa bao phủ và có tiếng nói phát ra từ ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ không sao cả" sau 6 ngày hôn mê, người ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi bà sống lại và bà kể chuyện nầy cho người chồng nghe. Mấy năm sau, chồng bà Iva Brawn mất và một năm sau, bà Iva đang nằm ngủ bổng nhiên thấy chồng mình xuất hiện nói với bà rằng: "Cách đây mấy năm, mình có kể cho tôi nghe những gì mà mình đã thấy trong vụ tai nạn xe hơi, nhưng tôi không hiểu, giờ đây tôi đã hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là nước. Mình không thể tưởng tượng được là nước ở đây đẹp đến cở nào... "

2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể lại rằng, bà bị chính người chồng dùng dao quyết đâm chết nhưng nhờ bề trên che chở, bà đã được sống lại trước sự kinh ngạc của các y tá, bác sĩ ở bệnh viện. Stooksbury kể rằng: "Lúc bị ngất đi và được mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết vì máu ra quá nhiều, riêng tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối đen...ở ngưỡng cửa sinh tử, tôi đã trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rõ ràng, bà đưa tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hãy trở về: "Hãy trở lại đi, chưa tới lượt con đâu!".

3. Bà Connie Zickefoose ở Cloverdale (tiểu bang Ohio) kể rằng: Lúc đó tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc tôi quay cuồng rồi một màn đen phủ ập lên... tôi thấy mình đi trên con đường đầy ánh sáng, hoa nở, hồ nước với cá bơi lội muôn màu... Tôi vào một căn phòng, trong đó có chúa Jesus. Chúa ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "Con không vào được đâu! Vì một khi con đã vào thì không thể ra được - phải nhanh lên vì ở đây không có thì giờ, và trên cõi thế giờ của con sắp hết rồi! Thế rồi tôi trở lại, tôi thấy thân thể tôi rõ ràng ở trên bàn sanh, mặt tái nhợt. Các bác sĩ đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ rằng tôi đã chết. Rồi tự nhiên họ reo lên vì biểu hiệu sự sống của tôi đã thể hiện qua cái máy gắn vào cơ thể tôi...

Kể từ khi cuốn sách "Life after Life" xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề tiếp cận với những hình ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích và nghiên cứu.

Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một trường hợp có thật đã xẩy ra như sau:

Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, thì bé này đã ngưng thở gần 20 tiếng đồng hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đã chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô hấp nhân tạo, cháu bé đã tỉnh lại và sau đó đã kể những gì cháu đã trải qua trong thời gian coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một người mà cháu nghĩ rằng đó là Chúa Trời. Người hỏi : "Cháu có muốn ở lại đây không thì cháu trả lời muốn nhưng người lắc đầu: con còn mẹ, con có trách nhiệm với người mẹ đang còn sống, vì thế con nên trở về..."

Ngoài ra cháu còn kể rằng cháu đã gặp nhiều trẻ con và người lớn, những người này đi lại tự nhiên nhưng nét mặt không vui và không rõ nét lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như chuẩn bị đi đâu, có lẽ đang chờ tái sanh. Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi cháu bé rằng: cháu đã tỉnh lại lúc nào cháu có biết không, thì cháu bé trả lời là khi nghe Chúa bảo con có trách nhiệm với mẹ đang còn sống hãy trở về thì vừa lúc cháu tỉnh lại...


 


VẾT SẸO TỪ TIỀN KIẾP

...Dấu tích luân hồi là những gì khả dĩ giúp chứng minh Luân Hồi là có thật, hay ít ra cũng là hình ảnh của dấu ấn một thời quá vãng nào đó ở con người. Ðể dễ hiểu hơn chúng ta thử đọc câu chuyện có thật sau đây đã xẩy ra ở Ấn Ðộ, mà báo Inda Today đã đăng tải như sau:

Titu là một cậu bé con mới 5 tuổi có cha mẹ là Samti và Makhavia Pratxa ở làng Varkhe... Lúc cậu bé vừa lên năm thì người mẹ rất ngạc nhiên khi nghe cậu lập đi lập lại câu nói lạ lùng:

- "Tôi chính là người đàn ông chủ cửa hàng bán máy phát thanh ở Agra. Vợ tôi là Uma, tôi phải đến đó. Tôi chính là Suresh Verma". Cha cậu bé cũng rất ngạc nhiên khi nghe con nhắc lại câu nói này, người cha kéo con lại phía bên mình và hỏi:

- "Con có thể nói rõ thêm cho ba nghe về điều con nói không?". Cậu bé chậm r%C
3593




Vác một đàn con trên vai
Ta đi bụi đời
Chín hướng mười phương

Trạm đầu dừng chân
Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới
Bến dứa trổ gai
Thân tù tội
Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no
Đêm nằm co sàn gạch
Lạnh rút gân nghe con khóc òa
Mẹ đứt ruột
Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu
Con muỗi buồn xo
Con muỗi vo ve

Vác một đàn con trên vai
Lôi thôi lếch thếch
Thân ăn mày
Tự đáy biển trồi lên đầu non
Mẹ nhìn con
Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm
Con nhìn mẹ
Xơ xác liễu hồn
Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ
Ăn qua bữa
Miếng tủi miếng thắt
Mặn lạt tình thâm

Bằng đôi chân của khủng long
Bằng đôi cánh đại bàng
Bằng trái tim gà mẹ
Ta áp đảo biển đông
Dọn đường thế hệ
Đưa con đến xứ hào quang
Rộng nhìn năm châu
Nở bừng trí tuệ

Đến đây
Bốn mùa tiết đổi
Cây trái ngọt lành
Mẹ mẹ con con
Lết mòn ruộng dâu
Từ đất bùn ta đứng lên
Cất tiếng hát mừng đời tự do
Tiếng hát thấm đòn
Tiếng hát vẫn dòn tan

Thấm thoát mười sáu năm
Ta tất bật bụi đời
Quên thời gian quên phấn quên son
Hôm nay nghe con ra trường
Ta rộn ràng
Thấp thỏm soi gương
Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt
Mới giựt mình
Thấm mệt
Tuổi xuân đã tiêu ma

Hôm nay con mừng vui
Ai cũng mừng vui
Riêng ta
Ta đứng bùi ngùi
Riêng ta
Ta đứng bồi hồi
Nghe loa xướng danh tên con
Tân khoa tiến sĩ
Mẹ òa khóc
Tưởng gọi đúng tên mình
926




Con của một sếp lớn đến trường, tay ôm một lô các cuộn giấy fax đắt tiền. Một quý tử con nhà mafia đi xe Jeep ngang qua hỏi:
- Sao thế, máy fax của lớp cậu hết giấy à?
- Không, đem nộp giấy vụn ấy mà! Sao hôm nay cậu lại đi xe Jeep, oai thế!
- Oai gì đâu, hôm nay lớp tớ gom sắt vụn.
1777




Cộng doanh số bán hàng trong ngày, thấy nhân viên mới đến bán được những 100 ngàn đôla, chủ cửa hàng gọi anh này lên hỏi:
- Chỉ với một vị khách, làm thế nào mà cậu bán được ngần ấy tiền hàng?
- Đầu tiên, ông ta mua một lưỡi câu nhỏ. Sau đó tôi khuyên ông ta mua thêm một cái loại vừa và một cái lớn. Mua xong lưỡi câu, tôi bảo ông ta nên mua thêm dây câu: loại nhỏ, loại nhỡ và loại to. Tiếp đến là cần câu, lều câu, xuồng câu hai động cơ... Cuối cùng, thay vì chúng ta phải chở hàng đến tận nhà cho khách, tôi khuyên ông ta nên mua luôn một chiếc microbus chuyên dùng để chở xuồng và đi picnic.
- Như vậy là cậu đã thuyết phục và bán cho ông ta tất cả mọi thứ bắt đầu từ ý định chỉ mua một cái lưỡi câu. Giỏi lắm!
- Không hẳn thế đâu ạ
- cậu nhân viên giải thích
- Ông ta đến mục đích chính là mua một hộp băng vệ sinh cho vợ. Nhưng tôi khuyên ông ta rằng: Nếu vợ ông ở tình trạng như vậy, thì ông không nên ở nhà mà tốt nhất là đi câu vài ngày.
2245






Mùa chướng xổ cửa đất Phương Điền. Nửa đêm cả nhà tôi tốc mùng ngồi nghe tiếng ngói dịch lắc cắc, rờn rợn trên mái nhà phía Đông Nhân Phủ. Má tôi mở cửa sổ, kêu vọng qua bên đó, "Thằng Tứ Hải đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để không may ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen". Dứt tiếng thì cái đầu tóc ngái ngủ bù xù của ông chủ trẻ của "Nhân Phủ" lù lù trước sân, tay na con Tha, chị Thể vợ anh dắt con Tho đi sau, thả hai đứa nhỏ vô mùng tôi, anh làu bàu, "Cha, điệu này biết nhà mình có qua được mùa gió này không đây, Út Nhỏ ?".

Tôi thở dài cái thượt như cũng đang nặng lo cho "nhà mình" (mặc dầu hơi ngẩn ngơ, mình có vai gì trong ngôi nhà cổ sắp xiêu đổ ấy đâu ?). Má tôi cằn nhằn khi tiễn đôi vợ chồng hàng xóm ra cửa, "Mắc cái gì mà tụi bây giữ hoài cái nhà oan chướng đó, sao không bán đi cho rồi, cất nhà mới, sống cho bình thường như con người ta". Anh Tứ Hải không trả lời, chỉ nghe anh cười khà khà khà.

"Nhân Phủ" của anh cách nhà tôi một hàng rào cặm bằng cây bình bát, đó là ngôi nhà cũ kỹ, già nua nhất làng cổ Phương Điền. Nghe kể, ông Tổ nhà anh Tứ Hải đã đứng ở dưới cây dông nem trước nhà, bảo tốp thợ ông muốn làm một ngôi nhà đẹp nhất, rộng nhất xứ này, một ngôi nhà thật lớn cho tất cả con cháu ông khi sinh ra đều có chỗ cho mình. Ròng rã hơn ba mươi năm, những người thợ xứ Quảng đã làm nên một kiệt tác nhà rường Nam Bộ, nghiêm cẩn, công phu chạm trổ từng chi tiết nhỏ, từ cây cột cái tới ngạch cửa, từ những cánh cửa tới mấy cái bậc tam cấp lối vào… Nghe kể, khi làm "Nhân Phủ", người ta đã cúng đủ mười lễ, nên nó điềm nhiên đi qua hai cuộc chiến tranh mà không có một vết tích nào. Năm 1972, Mỹ Nguỵ cho bom đạn cày xới dữ dội vùng này, nhưng chỉ có quả bom rớt sau nhà, thành một cái ao bông súng.

"Nhân Phủ" được trao cho anh em Tứ Hải, Tứ Phương khi hai người mới mười tám, hai mươi tuổi. Lúc đó, nó đã khọm rọm, bệu bạo như răng người già. Hồi nhỏ, tôi ở "Nhân Phủ" còn nhiều hơn ở nhà, tính tình năng động, phá phách nên hợp anh em Tứ Hải hơn bà chị ruột, má rầy hoài, có lúc nghe má kêu Út Nhỏ ơi, tôi hộc tốc chạy chui rào qua đất nhà mới dạ. Nhờ vậy, tôi mới phát hiện bên anh Tứ Hải có nhiều cái lạ, về cười nắc nẻ với má tôi. Lồng bàn đan bằng tre đậy mâm cơm được lợp thêm một lớp vải, nếu không, trứng mọt trên trần nhà rắc xuống thức ăn như người ta rắc tiêu xay. Đít quần của anh em anh Tứ Hải mặt vải luôn luôn nhăn nhúm, trầy xước vì mấy bộ ván mọt gặm lởm chởm. Trời mát rượi, đi trong nhà mà phải chụp cái nón lá sùm sụp lên đầu, đề phòng ngói rớt. Mấy cây cột chạm rồng chạm phượng bị mối cắn bộng than, búng ngón tay nghe kêu bộp bộp. Còn trẻ, lại nghèo, anh Hải phải đi bán bánh bao dạo, nuôi em ăn học, nên điều mà họ có thể làm được là giữ cho đồ đạc trong ngôi nhà bóng như gương. Năm mười sáu tuổi, qua "Nhân Phủ" chơi, nhìn vào đó, tôi thấy cả đám mụn cám lấm tấm trên cánh mũi mình.

Năm tôi mười sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng thương chị Thể mất rồi. Chị Thể mồ côi, từ nhỏ về ở nhờ trong "Nhân Phủ", đẹp nết, đẹp người. Sinh thời, má anh Hải hay nắm tay trìu mến, "Má có hai thằng con trai, chừng nào lớn, bây chọn một đứa, làm con dâu má nghen". Chị Thể chỉ cười cười, không nói. Chị hiền, dịu dàng như chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần còn nhớ, huống chi ba người họ lớn lên cùng nhau… Nhưng nhường qua nhường lại hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày… Ông anh chẳng mua gì, nhưng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp giặt đồ, anh xách nước để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai người cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm ngây dại mùi lá dứa. Người em thức sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung những câu chẳng có nghĩa gì.

Nên chị Thể chọn ai tôi đều thương người còn lại. Ở ngoài cuộc, hai má con tôi phân tích kỷ lưỡng, tôi nói anh Phương đáng để thương, anh Phương cao ráo, thanh mảnh miệng nhỏ, mắt sâu, trán cao, ăn nói nhỏ nhẻ là người thông minh. Má nói thằng Hải mới tội nghiệp, tính tình hịch hạc, ruột để ngoài da mà nhiệt thành, lúc nào cũng xởi lởi thưa gởi nói cười với người trên trước. Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.

Tốt nghiệp trung học xong, anh Tứ Phương xung phong đi bộ đội. Anh đi mà không nói gì với chị Thể, tôi cứ nằng nặc đi theo hỏi tại sao, anh nói, "Thương anh Hai quá, Út Nhỏ à. Mười bốn tuổi ảnh đã thay cha mẹ nuôi anh, quán xuyến trong ngoài, học hành lỡ dỡ…". Tôi ờ há, ờ hen, hiểu rằng "Nhân Phủ" từ khi dựng lên luôn đủ chỗ cho hết thảy mọi người sinh ra ở đó, chỉ vì nặng lòng yêu thương mà anh phải ra đi. Hôm xe đưa quân chạy qua nhà, tôi khóc bù non bù nước, tội nghiệp Phương quá.

Anh Tứ Hải thấy vậy, tưởng đâu tôi đã để lòng yêu, nên coi tôi như em dâu anh vậy, như tôi là người của Nhân Phủ mất rồi. Mấy bữa chị Thể đi chợ, ở nhà kiếm không ra cái tô, cái dĩa anh Tứ Hải cũng chạy qua hỏi tôi. Mà ngộ, hỏi gì tôi cũng biết hết. Bữa Phương gởi thư về, anh Hải rủ tôi qua đọc. Từ đầu tới cuối Phương nhắc tới tôi chỉ một câu chín chữ, "Út Nhỏ có qua nhà mình xin giấm không (?!)", vậy mà anh Tứ Hải vẫn ân cần căn dặn, "Ráng chờ thằng Phương nghen, Út Nhỏ. Ba năm, tưởng dài mà mau lắm". Tôi mắc cười, nhưng giả đò quá hay, thắc thỏm than nhớ thương, cho anh yên tâm.

Ba năm, tưởng dài mà mau, Anh Tứ Hải cưới chị Thể, hai năm sinh hai đứa con gái. Anh Tứ Phương về, ngó chị Thể nuôi con gầy ngẳng, lặng lặng mà đau. Nhiều khi lỡ miệng kêu :

- Thể à…

Chị Thể nhỏ nhẻ cắt ngang :

- Chú Út hỏi chị chi đó ?

Anh Tứ Phương cười cười, ờ ờ, tính nói gì mà quên mất tiêu rồi. Nói gì bây giờ, cả cách xưng hô cũng vời vợi ngăn cách rồi. Má tôi nói (giọng như là cảnh cáo tôi vậy), thằng Tứ Phương khác thường, nó trầm tính, sâu sắc, người như vậy thương ai là thương tới chết mới thôi. Tôi rành sáu câu nên đâu có dại, nên nhiều bữa từ bên nhà ngó sang thấy chị Thể lúi cúi thổi lửa nấu cơm trong gian bếp là đà khói, tôi hỏi lòng, có thích vị trí của chị ấy không. Câu trả lời là không.

Rủi quá, ba mươi hai tuổi tôi vẫn chưa lấy được chồng, vẫn chưa yêu ai. Mỗi lần có anh chàng chạy lại coi mắt tôi là anh Tứ Hải buồn rượi, lo chắc tôi thôi chờ em anh rồi, chàng nọ dạt ra, anh sướng quá, cười mười bữa chưa thôi. Má tôi tức lắm, bảo, "Con Út Nhỏ chắc mắc nợ anh em thằng Tứ Hải. Để coi, thể nào mầy cũng ế chồng. Mà, bà ngờ ngợ, con nhỏ ngông này, có thương thằng Tứ Phương thiệt hôn ?". Tôi cười, "thiệt đâu mà thiệt, má coi, trên mặt con có vẽ chữ Phương nào không ?".

Đương nhiên là không rồi, tình nhân gì hai đứa tôi, tình nhân gì như tôi, ngồi uống rượu với người ta, nghe người ta than thở "anh quên không được chị Thể". Phương ra quân, xin được một chân bảo vệ cơ quan tòa án thành phố, buổi tối, anh phụ chạy bàn cho quán cà phê truớc cổng, anh nói, phải kiếm tiền để phụ giúp anh Hai sửa lại nhà. Một năm anh về Phương Điền chừng năm ba lần. "Nhân Phủ" sẽ xáo trộn đôi chút, anh Tứ Hải ghé quán chú Sồi mua rượu, đổ vô cái hủ đựng đầy nhóc xác trái nhàu, trái khế. Chị Thể mua thức ăn ngon hơn, nấu bữa cơm canh tươm tất hơn thường ngày. Mấy đứa nhỏ được chú Út giảng nghĩa những chữ ghi trên mấy tấm hoành phi kia. Hai chữ treo giữa nhà là "Vạn cổ phương", còn kia là "Ái sở thân", kia nữa là "Đức Lưu thiên cổ"… Hai đứa nhỏ ngẩn người ra, vỗ tay cười, chú Út nói sai bét, ba con nói chữ đó là "Anh hùng náo", chữ kia là "Bao Thanh Thiên", còn lưu thiên cổ gì đó, ba nói là "tứ tử đăng khoa" (toàn là tên mấy tuồng cải lương). Tứ Phương nghe, ôm cháu vô lòng, ngậm ngùi thương người vì anh mà chịu nhiều thua thiệt. Rồi chạng vạng, tôi qua, cả nhà mở tiệc. Trẻ con no bụng chạy đi mở ti vi coi, còn lại bốn người cùng nhau uống rượu tới khuya xa. Mà không, chỉ ba người uống, còn chị Thể thì ngồi lui ra sau chừng năm ba thước như xưa rày vẫn vậy (tôi ngờ rằng cũng ở vị trí đó, một hôm chị chọn được người trăm năm của mình), lặng lẽ, cười cười. Cũng cảnh này, người này nhưng trong lòng đã đánh mất sự bình yên, trong trẻo xưa rồi. Tôi nói, nghe bù xè nhai gỗ trèo trẹo buồn thiệt. Anh Tứ Hải bảo, ngói trên mái nhà lăn lóc cóc xuống máng xối kìa. Anh Tứ Phương chắc lưỡi, anh mới kiểm tra chừng một chục cây cột, thấy vậy chớ mấy cái ngàm mục hết rồi, chắc là không chịu được bao lâu nữa. Rồi nghĩ, mai mốt không còn căn nhà cũ kỷ này, biết lấy gì mà nói với nhau ?

Vì vậy mà phải giữ, quyết giữ nhà cho bằng được. Yêu và đau đã làm cho anh em họ nhọc nhằn ở bên nhau thì căn nhà cổ với những kỷ niệm ngọt ngào ngày thơ ấu níu lòng họ lại. Tôi mấy bận khổ lây, có bữa mưa gió lớn, bỏ nồi cơm nấu dỡ chạy qua, thấy anh Tứ Hải một tay vịn quần một tay chạy đi đốn cây chống đỡ, tôi nhào vô cùng chị Thể lấy dây chằng mấy cây cột cái. Rồi bưng thau đi hứng dột, rồi tiếp chị đùn mấy bọc nước trên nóc mùng. Lúc về tới nhà nhìn tôi loi ngoi ướt, má chép miệng, giọng như mỉa mai, như hờn tủi "Ông bà mình nói có sai đâu, con gái là con người ta …". Tôi cười, nhìn má, "trời ơi, má nói kỳ, hàng xóm với nhau, rảnh thì giúp", mà lạ, sao tôi nhìn thấy mình trong mắt má lại lủi thủi, đáng thương thế kia.

Không biết có phải vì vậy mà má tôi trở nên buồn bực. Có bữa đi dự đám cưới ở cuối xóm về, thấy tôi đang ngồi lặt bông so đũa, má cay đắng hỏi "mầy bây giờ già đầu rồi, còn ngóng ra cửa trông ai nữa ?". Đâu, tôi cãi lại, con ngó mấy cái bông mà. Rồi má thở dài, "Sao lóng rày, thằng Tứ Phương ít về…". "Kệ thằng chả, má ơi", tôi đáp, chợt nghĩ, ừ, thì cũng lâu rồi anh Tứ Phương không về. Những lần xe đò cho khách xuống "Nhân Phủ" trước thì nhặt, bây giờ thưa lắm. Có về, anh Tứ Phương cũng ở lại nhà chừng hai ngày rồi đi, anh nói với tôi, ở lại một bữa là lòng đau một bữa. Tôi gật gù, ờ, em hiểu chớ sao không. Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì. Tôi cố gắng đóng vai trò cô em gái nhỏ như lúc còn bò lủm đủm, anh bồng đi mua kẹo cho ăn, như lúc tám chín tuổi anh chặt giùm bó đũa chơi chuyền, như lúc mười bảy tuổi, hai anh em chở nhau ra chợ thị xã, chọn đẫm mồ hôi mới được cây kẹp tóc cho anh tặng người yêu…

Anh đi rồi, tôi nói với má, " Trời ơi, ngồi với thằng chả mỏi lưng quá, má coi, yêu đương chi cho mệt vậy không biết, bởi vậy, con đâu có thèm. Mà, sao ảnh không quên chị Thể phứt cho rồi, để con khỏi mắc công nghe than thở". Rồi nghĩ, mai mốt đi lấy chồng, ai ngồi chia thương sẻ nhớ với anh, hả Phương.

Lụi hụi rồi gió lại đổi mùa. Tôi gà gật ngồi cho con bé Tho giết trứng tóc. Nó kêu trời ơi, cô Út Nhỏ, cô có tóc bạc rồi nè. Chú Út con cũng có, nhiều lắm. Mà, chú Út con sắp cưới vợ rồi. Tôi hỏi, vậy hả, vậy hả, vậy sao. Dạ, con bé nhỏ nhẻ, con chưa biết mặt, con hỏi giống ai, chú nhìn vòng vòng một hồi, mới nói, cổ hơi giống má. Tôi bảo, ờ, giống má con cũng được, vừa đẹp vừa hiền. Rồi nghĩ, sao mình không có gì giống chị Thể hết vậy ta, tệ thiệt.

Nhưng giống mà làm gì ? Anh chị Tứ Hải qua nhà, cúi đầu chịu lỗi với má tôi, nói vì người của "Nhân Phủ" mà tôi phải chịu lỡ dỡ. Tôi cười nắc nẻ, cười ha ha ha, nói, "Em với anh Tứ Phương giả đò đó, tụi em đâu có tình cảm gì". Mà, dường như họ không tin, chị Thể nắm tay, nhìn tôi chua xót, còn anh Tứ Hải trầm ngâm ngậm một bụm khói thuốc, quay mặt thở dài. Nhìn thái độ anh chị vậy, tôi tính, điệu này chắc mình cũng phải buồn một chút. Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.

Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi.
2171




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Mã Tuấn


Tuấn, tên chữ là Long Môi, con một người lái buôn, phong thư đẹp đẽ, tính tình phóng khoáng, thích múa hát, thường theo bọn làm trò, lấy khăn buộc lên đầu, đẹp như con gái, nên lại có thêm tên hiệu là Tuấn Nhân.

Năm mười bốn tuổi được vào trường quận, nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nên nghỉ buôn, một hôm gọi sinh đến bảo:

- Mấy quyển sách này, đói không thể thổi cơm mà ăn, rét không thể may áo mà bận, sao bằng học buôn bán, nối lấy nghề cha còn hơn!

Thế là Mã tập nghề buôn, theo người ta ra biển đi buôn. Một hôm thuyền bị gió bão cuốn đi suốt mấy ngày đêm đến một nơi đô thị, người xứ này xấu như ma lem. Nhưng khi thấy Mã, họ lại cho là yêu quái, kêu rầm lên, kéo nhau bỏ chạy tán loạn.

Thoạt đầu trông thấy hình dạng của họ, Mã sợ lắm. Nhưng sau mới biết là họ sợ mình, bèn làm cứng, bắt nạt lại. Gặp họ đang ăn uống, liền sấn đến, họ sợ chạy trốn, thì ngồi vào ăn nốt những thức ăn còn lại.

Lần đầu tiến sâu vào mấy làng trong chân núi. Ở đây có một số người mặt mũi cũng hơi giống người thường nhưng quần áo rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghĩ dưới gốc cây, người làng không ai dám đi qua, chỉ đứng đàng xa mà ngó. Lâu lâu, biết Mã không phải giống ăn thịt người, mới mon men lại gần. Mã lân la hỏi chuyện, tiếng họ nói tuy khó nghe, nhưng cũng lõm bõm hiểu được một nữa.

Mã liền nói cho họ biết mình từ đâu tới, mấy người kia mừng, phô khắp với mọi người trong thôn rằng: "Khách không phải định đến đây cắn xé ai đâu!". Ấy vậy mà có một người xấu xí nhất vẫn đứng xa xa, rồi lập tức trốn mất, không dám tiến lên.

Bọn người dám đến gần Mã là những người mồm, miệng, tai mắt mọc đúng chỗ của nó, trông cũng hơi giống với người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời Mã ăn. Mã hỏi:

- Tại sao họ sợ tôi như vậy?

Bọn ấy trả lời:

- Trước thường nghe ông cha kể lại, cách phía Tây hai vạn ngàn dặm có nước Trung Quốc dân ở đó hình dạng kỳ quái. Nhưng chỉ nghe thế thôi. Bây giờ mới tin thật.

Mã hỏi:

- Sao các ông nghèo thế?

Đáp:

- Nước chúng tôi không trọng văn chương mà chỉ trọng dung mạo: Ai đẹp nhất thì làm thượng khanh, ai đẹp vừa thì làm quan cai trị các dân xã, hạng kém nữa cũng được ngồi trên yêu chuộng nên mới có lương bổng để nuôi vợ con. Còn bọn chúng tôi khi mới sinh ra, cha mẹ đều cho là xấu xa, phần nhiều đem vứt ra đường, trừ nhà nào hiếm hoi, không có con nối dõi, mới phải bất đắc dĩ mà nuôi vậy?

Hỏi:

- Nước này gọi là nước gì?

- Đại La Sát. Kinh thành ở phía Bắc, cách đây ba mươi dặm.

Mã nhờ dẫn đi xem cho biết. Hôm sau gà gáy đã trở dậy cùng đi, sáng ngày mới đến đô thành. Tường thành xây bằng một thứ đá đen như mực, lầu các cao gần trăm thước, nhưng ít có nhà lợp ngói, chỉ lấy đá đổ úp lên nóc, nhặt một mảnh đá vỡ, lấy móng tay cạo ra, thì không khác gì son tàu.

Lúc ăn, nhằm buổi tan chầu, có một vị quan lớn che lọng từ trong triều đi ra. Người làng trỏ bảo:

- Kia là quan Tướng Quốc.

Mã ngẩng lên trông, thấy hai tai quan Tướng Quốc đều mọc ngược trở lại, mũi ngài có ba lỗ, rèm mi rủ xuống che kín cả mặt như bức mành mành.

Kế đến mấy người cưỡi ngựa nối gót theo sau. Người làng lại nói:

- Đấy là các quan đại phu.

Rồi lần lượt chỉ khắp các mặt quan giới thiệu cho Mã coi: Ông nào ông nấy râu tóc lởm chởm, hình dạng quái dị. Kỳ nhất là hễ quan chức càng nhỏ thì mặt mũi càng đỡ xấu.

Một lúc Mã ra về, người đi đường trông thấy đổ xô mà chạy, ngã dúi vào nhau, như gặp quái vật. Người làng cố giải thích cho họ nghe, họ mới dám đứng lại, nhưng cũng chỉ đứng xa xa.

Từ bấy giờ, trong nước, từ lớn chí bé, ai cũng biết sơn thôn hiện có người quái ở. Thế là các quan khanh, quan đại phu muốn xem cho rộng tầm con mắt, tranh nhau sai người trong thôn mời Mã đến. Nhưng mỗi khi đến nhà nào, người canh cổng liền đóng ngay cổng lại, đàn ông đàn bà nấp trong cửa nhìn ra, thì thào bàn tán, đi suốt ngày không ai dám mời vào nhà. Người làng nói rằng:

- Ở đây có quan chấp kích đã được tiên vương sai sứ đi ngoại quốc, trông thấy người lạ cũng nhiều, hoặc giả ông ấy không sợ chăng?

Bèn cùng đến nhà chấp kích, quả thiên ông ta vui mừng, vái chào đón và tôn làm thượng khách. Mã ngắm nghía vị lão quan thấy tuổi trạc tám chín mươi, mắt lồi hẳn ra ngoài, râu ria tua tủa như lông nhím nói rằng:

- Kẻ hèn này lúc trẻ phụng mệnh vua đi sứ rất nhiều nước, duy có nước Trung Hoa là chưa đến bao giờ. Năm nay đã một trăm hai mươi tuổi, ai ngờ lại còn được trông thấy nhân vật thượng quốc thực là may mắn! Việc thế nào cũng phải tâu lên thiên tử mới được. Nhưng lão phu ẩn cư sơn dã, đã lâu không bước tới sân rồng, sáng mai xin vì ông đi một chuyến.

Liền sai mở tiệc, phân ngôi chủ khách mời ngồi, rượu được vài tuần, lão quan truyền đòi bọn nữ nhạc ra, tất cả tới hơn mười cô, thay đổi nhau múa hát, trông cô nào cũng xấu như quỷ dạ xoa, đầu bịt gấm trắng áo đỏ dài quét đất, giọng hát líu lường, không rõ ra câu gì, nhịp điệu thực là kỳ dị.

Chủ nhân ra vẻ vui thích lắm, hỏi rằng:

- Bên Trung Quốc các ông có đàn ca thế này không?

Thưa rằng: "Có!"

Lão quan xin Mã hát thử cho nghe, Mã bèn gõ vào bàn mà hát một bài, chủ nhân mừng, nói rằng:

- Lạ quá! Tiếng nghe như phượng hót rồng ngâm, lão phu quả thực chưa từng được nghe bao giờ.

Hôm sau lão quan vào triều tiến Mã lên quốc vương. Vương vui vẻ hạ chiếu vời. Có hai ba vị đại thần can rằng: Mã hình dạng quái dị e đức vua trông thấy sợ quá mà chết khiếp đi, có hại đến long thể chăng? Vua bèn thôi.

Lão quan về nói với Mã, có ý tiếc rẻ hộ chàng.

Ở nhà chấp kích được ít lâu, một hôm uống rượu say với chủ nhân, say, bèn rút kiếm đứng lên múa, lại lấy than bôi vào mặt, giả làm Trương Phi. Chủ nhân cho là đẹp, nói rằng:

- Xin khách cứ để nguyên bộ mặt Trương Phi như thế, ngày mai vào chào tể tướng, tất thế nào tể tướng cũng vui lòng dùng ngay, bổng lộc không lo gì thiếu.

Mã nói:

- Trời đất! Chỉ làm trò chơi chốc lát thì còn khả dĩ, chớ ai lại nhờ vào bộ mặt để cầu công danh bổng hậu bao giờ!

Chủ nhân nài mãi, Mã phải bằng lòng vậy. Rồi bèn truyền mở tiệc mời các quan đến uống rư
ợu, dặn Mã vẽ mặt để n gồi chờ đợi. Một chốc khách đến gọi Mã ra chào. Khách kinh ngạc nói:

- Ô hay! Quái lạ thực! Sao ngày trước xấu xí thế, mà bây giờ lại đẹp đẽ thế này?

Bèn kéo cùng ngồi uống rượu rất vui. Mã đứng lên uốn éo hát một bài theo điệu thợ cấy, cử tọa không ai là không mê thích. Hôm sau tranh nhau dâng sớ tiến cử Mã lên Hoàng đế, vua mừng lắm, sai mang cờ tiết ra triệu Mã vào triều bái yết, vua phán hỏi đạo trị an ở Trung Quốc thế nào, Mã trình bày cặn kẽ, được vua khen lắm, truyền bày yến tiệc ở Ly Cung, ban thưởng cho. Rượu đã say, vua phán hỏi:

- Nghe đồn khanh múa hát giỏi lắm, có thể cho quả nhân nghe một bài được không?

Mã lập tức đứng lên múa, cũng bắt trước lấy gấm trắng bịt đầu, hát theo điệu cò lả. Vua bằng lòng lắm, ngay ngày hôm ấy xuống chiếu phong cho làm Hạ đại phu, luôn luôn cho ngồi hầu yến, ân sủng đặc biệt.

Lâu dần các quan trong triều đều biết là Mã khoác bộ mặt giả, đi đến đâu cũng thấy người ta thì thầm bàn tán, không vồn vã thân mật như trước, Mã tự thấy mình cô lập, trong bụng áy náy không yên bèn dâng sớ xin về hưu, vua không nghe. Lại xin nghỉ dưỡng sức ít lâu, vua bằng lòng cho nghỉ ba tháng.

Mã liền lấy ngựa chở vàng về sơn thôn. Người trong thôn quỳ xuống mà đón. Mã lấy vàng lụa phân phát cho mấy người quen thân từ trước, tiếng reo mừng vang lên như sấm.

Lời bàn:

Bài văn này, đọc kỹ mới thấy rõ phần u mặc độc đáo của nó

Trang Tử nói: "Có người bệnh hủi kia nửa đêm sinh đặng đứa con. Bèn lật đật kiếm cho đặng lửa để xem, chỉ nơm nớp lo sợ nó không giống mình."

Ông lại bảo: "Đồng với ta, cho ta là phải, không đồng với ta, cho ta là quấy". Ôi, lẽ Thị Phi của con người ta chỉ có thế mà thôi ư!

"Họ Tử xa có con lợn nái sắc đen huyền, đẻ một lứa ba con, hai con đen huyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình, thì ghét bỏ, sau cắn chết, xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi". Tình sử Trung Hoa cũng có câu chuyện u mắc như sau: Có một chàng si tình, yêu một ý trung nhân một mắt. Ra đường anh ta nhìn đàn bà chung quanh, hết sức bất mãn tại sao họ lại có dư một con mắt!

Có thể nói, nếu muốn tóm tắt ý nghĩa sâu xa của bài văn nầy, ta có thể mượn lời của Maurice Maeterlinck mà rằng: "Trong nhà thương điên, dưới con mắt của các người điên, kẻ điên nhất phải chăng là ông giám đốc bệnh viện"

Phan Sào Nam bàn về quẻ Bác có viết rất đúng: Quẻ Bác là quẻ âm cực trưởng, dương cực tiêu. Âm là tiểu nhân, dương là quân tử. Ở thời buổi này, tiểu nhân đắc chí hoành hành, người quân tử không còn chỗ nào mà hành động được nữa, chỉ nên ẩn dật mà chờ thời, may ra mới khỏi bị bọn tiểu nhân hãm hại".

Đúng là tâm sự của những bậc "ấn quân tử" thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sở cuồng Tiếp Dư khuyên ngăn Khổng Tử: "Phụng ơi! Phụng ơi! Lúc đời vô đạo, sao không ở ẩn? Đức sao mà suy thế! Từ nay trở về trước thì không sao can được! Nhưng mà từ đây về sau, còn có thể tự hối lại được! Nên thôi đi! Nên thôi đi! Ngày nay mà đi làm chính trị, nguy lắm thay!"

Lão đánh cá quả có lý khi khuyên Khuất Nguyên: "Thánh nhân tùy thời mà không câu nệ việc gì. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục thêm một thể? Loài người say cả sao. Ông không biết ăn cả men húp cả bã cho say theo một thể? Việc gì mà phải phòng xa nghĩ sâu đến nỗi phải bị phóng khí?" Chính là chỗ mà Trang Tử đã nói: "Ôi! Hạng thật mê, suốt đời không tỉnh. Hạng thật ngu, suốt đời không khôn. Ba người cùng đi mà có một người mê, thì chỗ mình định nói còn có thể mong đạt tới được, là vì kẻ mê ít, mà người tỉnh nhiều. Nếu ba người cùng đi mà có tới hai người mê, thì chỗ mình định nói đến không thể mong đạt tới được là vì người mê nhiều mà người tỉnh ít. Nay cả thiên hạ đều mê, ta dù có muốn chỉ đường cũng không thể được. Chẳng cũng xót xa lắm sao!... Biết là sự không thể được mà vẫn cứ gượng làm (tri kỳ bất khả nhi vi chi) đó lại còn mê hơn thiên hạ nữa!"

Câu chuyện Mã Tuấn trên đây của Bồ Tùng Linh quả là một thứ trào lộng u mặc thượng thừa... Hay nhất là đoạn chót: "Mã Tuấn làm trò, bôi mặt giả làm Trương Phi... Bấy giờ lại được người nước La Sát quý mến và yêu cầu giữ luôn bộ mặt giả ấy. Nhờ vậy mà Mã được giàu sang vinh hiển. Nhưng sau dần, người ta biết rõ là Mã mang bộ mặt giả nên không còn thích nữa, cũng chẳng ai ưa gì những con người giả dối ấy". Mã Tuấn quả là người sáng suốt nên đã biết lo xa mà xin về hưu trước.
565




Thiên Thần


      nơi này mùa xuân đi qua rất chậm. Trên những thảm cỏ ướt tháng hai, từng bầy con gái nhảy múa và xe sợi, gom lại những chùm hoa đỏ rực rỡ để chờ ngày mang về nhà chồng. Tôi ngồi nhìn con suối vắt qua trước nhà, nhìn những trái mơ non lông trắng mượt trên những tàn cây trước cửa, thấy lòng nhẹ thoảng như một vệt gió.

      Mẹ tôi ngồi khâu lại cái túi nhỏ xíu, cho mấy đồng bạc trắng vào trong và bảo, mang về dưới thành phố, đi đường xa thì nhét vào túi áo túi quần, kẻo cảm lạnh. Tôi bảo, đến khi con lấy vợ, mẹ có làm túi bạc cho vợ con không? Mẹ tôi nhìn tôi, còn tùy con dâu đã. Tôi bảo, chắc chắn là đẹp rồi. Mẹ tôi bảo, đẹp chẳng để làm gì. Đàn bà thành phố như yêu tinh.

      Tôi nhìn đám con gái tóc dài xuống suối lạnh. Nắng bắt đầu tràn qua những ngọn đồi, bốc khói những đám sương ướt. Mẹ tôi nhìn theo, chép miệng, con gái xóm mình đẹp, nhưng toàn lấy mấy thằng nát rượu, phí thân.

      Tôi bảo, nếu con lấy một trong những đứa con gái dưới suối, mẹ ưng đứa nào? Mắt mẹ tôi sáng ngời: Con Phần. Nó đẹp nhất xóm. Mà đảm đang. Tôi lại bảo, mẹ có chắc là nó sẽ chịu ở nhà với mẹ không? Con xuống thành phố, chắc là sẽ có nhân tình, nhưng sẽ không bao giờ bỏ vợ. Mẹ tôi bảo, thằng mất dạy, làm đàn bà nhục vì có những thằng đàn ông tham dục. Tôi cười. Nắng lên cao, vời vợi những đỉnh đồi trước mặt. Đám con gái thôi xe sợi, líu ríu đi qua ngõ nhà. Mẹ tôi gọi: Phần. Phần vào nhà, chân trắng, lông mày cạo thành vệt như sợi chỉ, đẹp cổ điển. Tôi bất giác cười, nghĩ đến những cô nàng thoáng qua tại các trung tâm ngoại ngữ ban đêm, mắt mày xăm đậm kỹ lưỡng. Họ có vẻ đẹp sắc sảo của họ. Họ không bao giờ là Phần được. Tôi bảo, Phần mấy tuổi. Phần cười, em hai mươi. Hai mươi mà chưa lấy chồng sao? Phần lại cười, chẳng nói. Mẹ tôi ngừng khâu, nhìn Phần cười, làm con dâu tao đi cho xong, mày đẹp người. Đám con gái cười rinh rích. Tôi cũng cười. Tôi không thích Phần.

      Cái thung lũng này như một miền đất hứa, cứ vài năm lại nảy thêm một nóc nhà mới, chẳng biết từ đâu về và tuyệt nhiên không ai có ý định bỏ đi. Mỗi nhà một dân tộc, một tiếng nói khác nhau. Nhưng đều êm đềm cả. Những người đàn ông đi biền biệt. Năm thì mười họa mới về. Những người đàn bà thì chờ đợi.

      Mẹ tôi sống quanh năm trong mấy nếp nhà sàn không muộn phiền. Mẹ bảo, tôi là con trời nên đi đâu cũng được, mẹ cũng chẳng lo lắng, chẳng ngại sợ những mưu chước của người đời. Tôi nhớ những ngày nhỏ, mùa đông thường rất dài. Ngày đó mẹ vẫn thường bảo, một buổi tối trời mưa dông sấm sét, mẹ đi lên núi Tả Van lấy lá thuốc về đắp chân cho bà ngoại. Đi ngang gốc cây dẻ sồi lớn, bỗng có tiếng nổ đinh tai. Mẹ ngất lịm đi. Sáng sớm tỉnh dậy, mẹ thấy mình đang ngập chìm trong bùn đất và cây dẻ sồi ngã vật ngang con suối, thân hình nó vạm vỡ như người đàn ông cường tráng nhất làng. Mẹ lấy tay khoét những vuông bùn quanh mình để tự giải cứu. Khi bước lên khỏi đám bùn ấy mẹ thấy thân mình nặng trĩu, như vừa trải qua một cuộc giày vò kinh khủng, chính mẹ cũng không hiểu vì sao. Cái cảm giác như vừa bị ngã ngựa, vừa đau rát phía cửa mình, vừa bần thần hoan lạc. Trên đám bùn rộng chảy tràn con suối, có những vết chân vừa to vừa dài đi hun hút lên phía thượng nguồn. Mẹ định thần lại, mẹ ngồi trên thân cây dẻ sồi. Mẹ bảo, mỗi khi trời nổi cuộc ngông cuồng, sau mây mưa vần vũ là một thiên thần xuất hiện. Chân thiên thần vừa to vừa dài, người đến rồi đi không ai biết mặt. Nhưng đó là một khuôn mặt đẹp, đẹp hơn hoàng tử, đẹp hơn cả ông Hẳng Bồ Câu suốt ngày tập khí công trên đỉnh núi Tả Van...

      Những ngày sau, cuộc sống của mẹ cứ bấn loạn lên vì những thay đổi bất thường, những thay đổi khiến bà ngoại cũng không ngờ tới. Mẹ mới tuổi hai mươi, mẹ chẳng biết gì nhiều. Khi thiên hạ đồn ầm lên, đến tai bà ngoại thì cũng là lúc tôi gào khóc đòi nợ cuộc đời. Bà ngoại lịm đi, không nói được gì và cũng chẳng muốn nói gì. Rồi bà kiệt dần. Hồn bà bay khỏi mái nhà tranh khi mẹ đưa tôi ra suối gội sạch đám cứt trâu trên đầu đúng ngày đầy tháng.

      Suốt những ngày ấu thơ, tôi vẫn thường huênh hoang với đám bạn, tôi là con của thiên thần, sinh ra từ gốc cây dẻ sồi và tôi khỏe mạnh cũng bởi được thừa hưởng sức lực cường tráng từ mạch nguồn bí ẩn đó. Và cho đến tận năm mười bảy tuổi, tôi vẫn thích tin vào những câu chuyện của mẹ, câu chuyện bí ẩn về thân phận tôi trong cuộc đời này. Mẹ tôi bảo tôi, mấy hôm nữa đi rồi chừng nào về? Mày có ưng con Phần để tao qua bảo với nhà người ta. Tôi cười, tôi không thích Phần. Mẹ cũng chẳng ngăn cản tôi đi đâu. Mẹ sinh cho trời đất một đứa con ngang bướng. Và mẹ để tôi đi, say mê đi và rồi âm thầm trả giá. Lúc nào chán mỏi thì lại về với mẹ...

      ...Mười bảy tuổi. Tôi lộc ngộc như con gà chọi, mắt thao láo, mặt đỏ gấc nhìn cái mái tóc dài như một búi quả mây. Chị mười tám, bỏ trốn khỏi nhà chồng đã được năm năm. Thực lòng tôi không biết chị đến nhà tôi từ đâu, chỉ nghe mẹ kể nhà chị ở bản người Mông, bố chị là ông già bán than củi khô mỗi chợ phiên. Tôi không đánh dấu ngày chị về ở chung một gian bếp với mẹ tôi, chỉ thấy đã thành thân thuộc. Để về sau nhớ lại, tôi nhớ mãi cái sợi chỉ nhỏ mảnh căng trên đôi mắt chị, đẹp miệt mài.

      Mãi về sau tôi mới biết những bão dông của chị trong đêm tối tuổi mười ba. Chị nhớ rất rõ, đêm đó là hội trùm chăn, đám con gái như những búp xuân mưng mẩy mong ngóng được bắt trộm đem về làm vợ. Chị chẳng mong như vậy. Anh trai chị hùng hục lôi chị từ phòng trọ của trường nội trú lên lưng ngựa, bắt c
hị về nhà. Mẹ chị tự tay khâu váy đẹp, bắt chị mặc để đợi được bắt đi. Mẹ chị bảo, đàn bà học nhiều chỉ để cãi nhau. Cái đêm hôm ấy, trong bóng đuốc lấp loáng sáng, người ta đi chơi, người ta uống rượu rộn ràng. Mưa gió gọi nguồn bất chợt kéo nhau về. Mưa ầm ào, mưa rộn rã. Chị vân vê cuốn sổ tay mà thầy giáo chủ nhiệm dạy văn đẹp trai trao tặng. Cuốn sổ tay có vẽ bông hoa đỏ rực, màu hoa như màu môi. Thế rồi bất ngờ chị bị bịt kín chăn, bị vác trên vai, xuôi dốc rồi ngược dốc. Chị quẫy đạp. Chị quăng mình trong đám cỏ rậm. Chị nhìn thằng trai say rượu đang cầm khúc cây định bổ xuống thân mình. Chị hoảng sợ, cầm hòn đá quăng ngược trở lại. Thằng trai say rượu ôm mặt, khóc tu tu như một đứa trẻ con. Chị chạy ngược suối, chị tìm về đây và gục xuống cầu thang của mẹ tôi. Mười ba tuổi chị đã một đời làm vợ. Về sau bố chị cũng ghé tìm. Nhưng chị tránh mặt. Mẹ tôi cũng cho chị tránh mặt. Bố chị biết, nhưng chỉ thở dài. Ông âm thầm một đời, lên núi đốt than để kiếm tiền đền con gái cho người ta.

      Tôi nhìn chị quay tóc bên vại nước. Chị mười tám, người chị như con cá trắm. Chị thích vẽ những bông hoa màu môi đỏ rực, nghĩ nhiều đến những tháng ngày ngắn ngủi ở thị trấn với người thầy giáo đẹp trai. Tôi biết điều đó khi theo chị lên núi bẻ ngô. Chị luôn mang theo cuốn sổ bên mình. Tôi lén xem, tất cả các trang viết đều đã nhòe ướt, chắc có lẽ bởi nước mắt, nhưng sao bông hoa màu môi vẫn đỏ rực không thôi. Chị nhìn tôi với cái mặt ngơ ngáo màu gà chọi mà cười. Thế mà tôi vẫn cứ nhìn. Chị cột tóc lên cao, cái cổ trắng ngần, bầu ngực phập phồng thở. Rồi chị đi lên núi hái chè. Tôi ngồi trên thềm nhà, nhìn ra những cây mơ trụi lá ngoài vườn, nghĩ xa xôi mà không sao dứt khỏi trái lê màu trắng phập phồng phía trong ngực áo chị. Đêm đó tôi thao thức. Ngày hôm sau vẫn thao thức. Có cái gì đó đau tức, như muốn trào ra, vỡ ra từ phía dưới thân mình. Đêm ấy tôi giã từ mười bảy năm non trẻ.

      Mười tám tuổi. Tôi đếm kỹ tất cả số bạc trắng được cất giữ suốt từ ngày bà ngoại mười tám tuổi cho đến khi cây tùng thông trên mộ bà đã cao quá hai đầu người. Chúng khá nhiều và nặng. Mẹ tôi bảo, đem về thành phố mà ăn học thành tài.

      Cái đêm cuối cùng tôi ở lại nhà trước khi về thành phố. Tôi thực tâm không nhớ đêm đó có trăng hay không, nhưng hình như mới quá rằm. Chị bảo tôi, mai Toàn đi rồi, có thấy buồn, có thấy nhớ nhà không? Tôi chẳng buồn nói với chị nữa. Tôi chẳng buồn. Chỉ thấy nhớ cái mái nhà này, mảnh vườn này, nhớ mẹ và nhớ chị. Tôi đi lên núi chào ông bà ngoại. Núi đầy sương và cây lá thẫm sậm như những khối thạch đen óng mượt. Chị chạy theo tôi, bước chân chị thình thịch. Chúng tôi cùng chào ông bà ngoại và ngồi lại. Trong mùi cỏ già đơm hạt, mùi hoa dẻ xôn xao từ những suối khe, mùi những trái bồ kết rụng xào xạc trong đêm ngai ngái. Chị tựa vào vai tôi, tóc thơm mùi hoa dại, mắt khép như một vầng trăng kín. Chị bảo, ngày mai phía trước Toàn là cả một cuộc đời. Còn tôi mãi vẫn chỉ có bông hoa màu môi làm bạn. Tôi sẽ là một thứ ma khô. Tôi không nhìn chị, chỉ nhìn vào khoảng bóng tối trước mắt, nghe tiếng thầm thì của những bóng hoa rớt về đêm. Tôi nhìn mãi vào đó để rồi bất ngờ nhận ra những chiếc cúc áo của mình đã được cởi hết. Tay chị nhẹ lướt xuôi xuống. Những miền cỏ xanh mùa xuân dậy thì. Và những bí mật. Tôi ngã vật ra đám cỏ. Cái đôi tay, như thiên thần dịu nhẹ, nhịp nhàng. Phía trên người tôi là một bầu máu nóng ngập tràn. Tôi đi nhẹ nhàng trong giấc mơ không ngày tháng. Si mê, cuồng dại. Những vòng quay bất tận. Trên cỏ. Bất chợt như vần vũ. Bất chợt gió. Bất chợt mưa. Và lóe chớp. Giấc mơ trong thân thể tôi như dòng nước suối khe chảy vào vùng bất tận. Mình tôi giật mạnh, sức tôi trôi đi cùng với giấc mơ của người đàn ông mười tám tuổi. Tôi nằm vật ra, mặt ngửa lên trời. Trong mưa gió vẫn có một vì sao cháy trên bầu trời. Mưa tràn lên thân thể tôi và chị. Mát lịm. Chị hôn lên những hạt mưa. Rồi bất thần bỏ chạy. Một mình tôi nằm lại. Nằm tới khi trời sáng, mưa tạnh. Tôi mơ thấy vết chân mình to như vết chân thiên thần. Tôi khóc...

      ...Tôi thường gắn những kỳ nghỉ Tết và nghỉ phép luôn thể, về chơi với mẹ. Đêm cuối ở nhà với mẹ, tôi định hỏi chuyện về chị nhưng lại thôi. Đám con trai kéo đến, rủ đi đánh bữa rượu, mai thì biền biệt suốt cả năm mới về. Mẹ tôi bảo, mai tàu xe xa, đừng nên uống nhiều. Bạn bảo, uống chút nữa, cho say cho mê, không mai mốt lại quên đường về nhà. Uống rượu với thịt trâu khô, rượu thật đậm đà. Rồi đi trêu gái. Đi xa quá. Mà đường về chếnh choáng. Tôi đi liêng biêng trên những triền dốc cao. Mỗi thằng con trai lại tìm được một cái bếp đàn bà rồi chui vào ngủ lại. Còn tôi, tôi bị thành thị làm phai mùi mồ hôi, chẳng đứa con gái nào theo nữa. Tôi đi, một mình cũng đi. Có tiếng sáo thổi bài ca gì, thật chẳng nhớ. Và tiếng sáo ngưng. Và trên trán tôi là bàn tay con gái. Anh Toàn đã say rồi, ngồi đây lạnh là mai không đi về thành phố được đâu. Tiếng của Phần. Tôi như lịm đi. Phần bảo, mai anh về thành phố, chắc chẳng nhớ em đâu. Nhưng em thì nhớ anh. Tôi bảo, đàn ông ra thành phố dễ hư hỏng, Phần tin làm gì. Em sẽ ở lại với mẹ, lúc nào thích thì anh về cũng được. Tôi nhìn nước mắt Phần. Nước mắt đẹp. Nhưng tôi bỏ chạy. Phần ngồi phịch xuống cỏ, khóc dấm dứt. Suốt đêm đó quẩn trong thung lũng là tiếng sáo réo rắt. Mờ sáng hôm sau, tôi lách qua phên giậu của mẹ. Tôi đi...

      Tôi đi như tháng giêng mười tám tuổi...



Dương Bình Nguyên

78




Sau khi chết, hồn của lập trình viên bay lên trời, thiên thần đón tiếp phán:
- Sinh thời anh không gây nhiều tội lỗi, ơn trên cho phép anh được chọn vào thiên đường hoặc địa ngục vi tính. Anh này bảo thiên sứ cho xem thiên đường. Đó là một trung tâm vi tính hiện đại, toàn những máy đời mới nhất, hiện đại nhất, multimedia không chê vào đâu được, server thì khỏi bàn... nói chung đúng là thiên đường. Vị thánh tuyên bố:
- Nếu chọn thiên đường, anh sẽ là user ở đây. Anh chàng đã sướng mê đi rồi nhưng vẫn đề nghị thêm:
- Ngài hãy cho tôi xem địa ngục ra sao?
- Cũng chính là đây, chỉ có điều anh sẽ là người quản trị hệ thống.
1694


Powered by Blogger.