Cô gái trẻ rụt rè đọc cho anh nhân viên bưu điện ghi nội dung bức điện cần chuyển đi.
- Chỉ có một từ "vâng" thôi sao?
- Anh này ngạc nhiên hỏi.
- Vâng!
- Mức phí tối thiểu cho phép cô gửi đi 7 chữ cơ đấy!
- Dạ, nhưng gửi tới 7 chữ "vâng" thì anh ấy đoán được tâm trạng của em mất!
2317




Một kẻ hành khất kể với người cùng cảnh:

- Này cậu, hôm trước tớ nhặt được một cái ví ở bãi để xe, có 5000F nhé.

- Thế cậu làm thế nào?

- Danh thiếp chủ nhân của nó vẫn còn trong ví. Không chần chừ, tớ gửi ngay cho hắn một phiếu chuyển tiền 500F để cảm ơn!


o O o


Hai kẻ lang thang nói chuyện với nhau. Một người hỏi:

- Mày sẽ làm gì nếu mày là tỷ phú?

- Tao à! Tao sẽ cho đặt những chiếc gối trên tất cả các ghế đá công cộng!1962




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Ngũ Liễu Tiên Sinh


Ông không rõ người ở đâu, tên họ gì, bên nhà có trồng năm cây liễu, nhân đó mà đặt tên.

Ông nhàn tĩnh, ít nói, không ham danh lợi. Tính ham đọc sách, lại không cần thâm cứu chi tiết, mỗi lần hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn. Tính thích rượu, nhưng nhà nghèo, không có được thường. Người thân cận cố cựu biết vậy, có khi bày rượu mời, ông lại uống hết, đến say mới thôi. Say rồi thì về, không lưu luyến gì cả.

Tường vách tiêu điều, không đủ che mưa nắng, bận áo vải thô vá, bầu giỏ thường trống không mà vẫn vui.

Ông thường làm ăn để tiêu khiển và tỏ chí mình. Đắc thất không màng, cứ vậy trọn đời.

Khen rằng: "Kiềm Lâu nói: Không đau đáu lo cảnh nghèo hèn, không vội vàng mưu cảnh giàu sang".

Lời nói ấy trỏ vào hạng người như này chăng?

Lời bàn

Lối văn u mặc của Đào Tiềm nhẹ nhàng hơn của Lưu Linh, nhưng đều cùng một mùi vị hư vô siêu thoát

Bài văn của Đào Tiềm có nhiều đoạn rất hay... "Ông, không rõ là người ở đâu, tên họ gì..." Những ai đã hiểu Thiền, đọc lên sẽ thấy thú vị vô cùng. Trong khi thiên hạ đua nhau tìm cách "lưu danh hậu thế" đánh trống thổi kèn để cho khắp thiên hạ được biết đến cái tên nhỏ bé của mình thì Đào Tiềm cũng như Bạch Cư Di khởi đầu nói đến một thứ con người "vô danh": Túy Ngâm tiên sinh và Ngũ Liễu tiên sinh

Đào Tiềm hiểu rất rõ những tâm sự của những con người háo danh trục lợi, họ nói rất hăng, họ nói rất nhiều... nếu không phải vì háo danh thì chắc chắn không còn cái gì thúc đẩy con người ham nói cả. Cho nên Ngũ Liễu tiên sinh là người "ít nói", và dĩ nhiên bởi ông là người "không ham danh lợi". Chỉ có một câu mà nói lên được tất cả nhân quả của cái trò hề bản gã (comédie du moi)

Lối đọc sách của Ngũ Liễu tiên sinh cũng khác đời. Người đời đọc sách thì đi moi móc từng chữ một, chết trong văn từ chi tiết, lặn hụp trong hình thức, chi ly phân tích. Ngũ Liễu tiên sinh đọc sách "không cần thâm cứu chi tiết, mỗi khi hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn". Đọc sách mà được như thế là nhập thầnÔng

Giàu nghèo bất kể, đắc thất không màng. Ngụ Liễu tiên sinh quả là người cách xa thiên hạ: Một con người Tự Do

Nếu trong hàng đệ tử Khổng Tử hỏi Ngài về cái con người quái dị này là hạng người thế nào, chắc chắn Khổng Tử sẽ bảo: "Người mà làm gì hiểu nổi. Hỏi Hồi, may ra nó mới có thể nói cho mà nghe!
562




Ðàn én bốn phương bay về, đem lại cho trần gian tin xuân vui đầm ấm. Ánh triều dương sắc vàng rực rỡ, lần lần lan rộng, phá tan màu khói sương vẩn màu sửa đục của buổi bình minh. Ðôi hàng cây bên vệ đường đã trút sạch lớp áo vàng để thay vào những mầm non mập mạnh. Ngọn gió đông dịu mát đầy sinh khí, nhẹ nhàng thổi lướt trên đám cỏ xanh. Thành Thất La Phiệt vào buổi mai, âm thanh tràn ngập vẻ thanh hòa đáng mến.

Phút chốc vầng hồng đã lên cao.

Trên con đường lớn quanh co hướng dẫn vào thành, một đoàn Sa môn có hơn nghìn người, đi nối tiếp nhau như con rồng lượn khúc. Các Tăng sĩ, vị nào cũng có vẻ điềm tĩnh đoan trang, nhìn xuống lặng lẽ bước, dáng đi xem tự tại thoát trần. Dẫn đầu là một bực Tôn túc, thân xác vàng ánh, tướng tốt trang nghiêm, đi chậm rãi oai nghi như voi chúa. Sau đấng ấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi ôm bát theo hầu. Ðấy là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng thị giả A Nan và chư Tăng vào thành khất thực. Bấy giờ, những người có lòng tin ngôi Tam Bảo, muốn gieo trồng giống phước, đem thức ngon vật lạ cúng dường Phật và chúng Tăng. Lại có kẻ không dâng cúng, nhưng thấy dáng điệu trang nghiêm siêu thoát của đấng Ðiều Ngự và các Ðại Ðức Tỳ kheo, cũng họp nhau đứng nơi cửa trông ra, hoặc đứng bên đường để nhìn ngắm.

Từ nơi cửa sổ trên lầu cao, nàng Ma Ðăng Dà một bậc tài sắc trong thành Thất La Phiệt, nghe tiếng động, khẽ vén bức màn thêu, đưa mặt nhìn xuống. Nhưng sống với hương tình vị ái của tuổi xuân, nàng làm sao nhận thức được sự giải thoát đức thanh cao nơi các nhà tu sĩ. Trông qua lớp áo hoại sắc của những vị Sa môn, nhìn lại y phục sa hoa lộng lẫy nơi thân mình, nàng tự thấy phong lưu sang trọng. Rồi kêu hãnh, nàng điểm trên môi một nụ cười. Nhưng bỗng ngạc nhiên, Ma Ðăng Dà chăm chú nhìn vị Tỳ kheo trẻ tuổi đứng hầu sau Ðức Phật. Ôi! giữa trần gian này sao lại có trang nam nhân đẹp đến thế? Nàng tự nghĩ thầm nếu được cùng người này chung hưởng được trăm năm, dù phải nghèo nàn, khổ nhọc, ta cũng ưng lòng, không còn ước mong gì hơn nữa! Mắt vẫn nhìn, trí mãi suy nghĩ, Ðức Phật và chư Tăng đi khuất từ lúc nào, nàng Ma Ðăng Dà còn ngồi ngơ ngẩn dường như không hay. Ðến chừng định thần lại, nhìn ra khoảng đường vắng vẻ, nàng buông một hơi thở dài, trên mặt lộ đầy vẻ bâng khuâng nhớ tiếc...

Không rõ A Nan xinh đẹp thế nào, mà Ðức Phật không cho ông mặc áo trần vai, vì sợ hàng phụ nữ trông thấy động tình. Và Ngài Văn Thù Bồ Tát từng khen tặng ông rằng: "Mặt như vầng nguyệt sáng, mắt tợ cánh sen tươi". Thế thì cô mỹ nữ kia yêu mến ông, điều ấy cũng không lấy chi làm lạ.

Nàng Ma Ðăng Dà từ khi trông thấy A Nan mối tình si dường như vấn vương khó dứt. Mỗi ngày, nàng thường lên lầu, trông ra cửa sổ, chờ chư Tăng đi khất thực, mong sao cho được thấy mặt người yêu. Sống trong tình khát ái khó tỏ nỗi lòng, Ma Ðăng Dà tâm thần ngơ ngẩn, quên ăn uống, biếng nói cười, gương mặt xinh tươi lần lần hóa ra tiều tụy. Thân mẫu nàng thấy con có những trạng thái bất thường như thế, sinh nghi đôi ba phen gạn hỏi. Không thể che giấu, nàng phải đem sự thật tỏ bày và van xin mẹ làm thế nào cho mình khỏi thất vọng. Nghe xong, mẹ nàng lộ vẻ ngậm ngùi bảo: "Con ơi! Ðiều con muốn khó thể thực hiện được. A Nan là người hầu cận thân tín của ông Cù Ðàm ông ấy và những Sa môn đệ tử của ông có nhiều phép thần thông kỳ diệu. Những bậc cao đức trong hàng lục sư còn phải nhường họ, thì mẹ đâu có tài gì làm thỏa nguyện cho con. Hơn nữa, A Nan là người thuộc dòng tôn quý, con của ông Hộc Phạn Vương, nếu không xuất gia, có lẽ y thay thế cho thái tử Tất Ðạt Ða là vua trong một nước, mẹ con ta là phận thấp đâu mong gì sánh được với người. Thôi con hãy xóa bỏ những ý nghĩ ấy và khuây khỏa nỗi sầu khổ để cho mẹ vui lòng. Mất A Nan này sẽ có A Nan khác, trong bốn phương thiên hạ lẽ không tìm được một người đẹp như thế hay sao?". Nghe mẹ nói, tuy lặng yên không đáp, song nàng Ma Ðăng Dà thật trăm phần đau đớn. Trước kia, một tia hy vọng lập loè trong trí, nay hiểu qua mọi nổi khó khăn, nàng tự cảm thấy như rơi vào cõi âm u ghê sợ.

Tâm tư tràn ngập nổi buồn thương thất vọng, nàng thầm than: "Thôi, thế là hết! Ðời ta đã đến giai đoạn kết cuộc từ hôm nay..."

Thế là bệnh của Ma Ðăng Dà mỗi ngày một nặng. Trong cơn mơ thấy A Nan đi đến, nàng vô cùng mừng rỡ, vội chạy đến choàng vai, nhưng vị Tỳ kheo trẻ tuổi nhẹ nhàng thoát khỏi tay nàng rồi biến mất; nàng cất tiếng khóc to lên thì vừa thức giấc... Thân mẫu nàng thấy con khi mê khi tỉnh, thoạt khóc thoạt cười, lấy làm buồn rầu lo lắng, một mặt khuyên dỗ, một mặt chạy chữa đủ thứ thuốc thang, song vẫn không hiệu quả.

Một buổi sáng tà dương đang tiết trời dìu dịu, gió bên ngoài nhẹ thổi động bức rèm thêu đùa không khí trong mát vào phòng; cơn sốt như được giảm bớt, Ma Ðăng Dà lặng lẽ thức tỉnh. Nhìn lạy thân hình vỏ vàng gầy héo, lộ vẻ chua cay, nàng nhẹ nhếch một nụ cười. Nhưng vừa khi ấy nàng bỗng ngạc nhiên, vì nhận thấy hôm nay trong phòng trang hoàng rất sạch sẽ. Ðối diện nàng bức họa: "Vườn xuân dưới nắng mai" được treo lên với vẻ mỹ thuật. Và, chiếc lọ thủy tinh cắm đầy hoa tươi, ai đã đem đến đây để ngay ngắn giữa mặt bàn như tấm thảm màu xanh da tươi. Ðể ý trông qua khe cửa, Ma Ðăng Dà thấy mẹ đang ngồi tiếp chuyện với một vị đạo sĩ râu tóc bạc phơ, vầng trán sáng suốt, nét mặt trầm ngâm. Hai người nói gì nàng không nghe rõ, nhưng hình như xem mẹ nàng có vẻ chú trọng lắm, Ma Ðăng Dà chưa hiểu, còn đang nằm yên suy nghĩ, thì nghe có tiếng giày của mẹ đi nhẹ vào phòng. Nàng nhắm mắt giả vờ như không hay biết, tiếng giày đi lại bên giường chợt im bặt hồi lâu, thốt nhiên nàng cảm thấy bàn tay từ mẫu đặt lên trán mình và tiếp theo đấy, nối liền một giọng đều đều êm dịu: "Con ơi! Chớ nên buồn rầu! Con là lẽ sống duy nhất của mẹ; với lòng quý mến con, mẹ có thể hy sinh tất cả hạnh phúc trên đời. Vì thế vừa rồi mẹ có mời được một đạo sĩ danh tiếng, ông đã truyền cho mẹ bài mật ngữ "Ta Tì La Phạm Thiên chú". Theo lời ông mật ngữ có năng lực mê hoặc người, dù người ấy đạo hạnh đã đến mức cao siêu. Nếu học thuộc thần chú này, con có thể thực hiện nguyện vọng của mình bằng cách mê hoặc A Nan, khiến cho y mất sức tự chủ và hoàn toàn bị sai sử tùy theo ý con muốn". Máu nóng chảy rần rật trong huyết quản, Ma Ðăng Dà như cảm thấy có một nguồn sinh lực mầu nhiệm làm cho nàng mạnh mẽ hơn hồi chưa bệnh, sau khi nghe được mấy lời ấy; gương mặt tươi tỉnh hẳn lên, nàng nói với giọng run run vì sung sướng, cảm động: "Thật thế hở mẹ? Nếu vậy bệnh con sẽ lành và con không còn lo buồn gì nữa!". Rồi nàng trỗi dậy gọn gàng như người vô sự.

Nửa tháng sau, khi sức khẻo gần bình phục, Ma Ðăng Dà đã thuộc làu làu bài mật ngữ. Nàng còn chờ một thời gian ngắn cho trong người thật mạnh sẽ thi hành ý nguyện, lòng chứa chan hy vọng, tin chắc thế nào mình cũng đắc thắng bằng hai lợi khí: nhan sắc và thần chú nhiệm mầu. Rồi, một buổi sớm mai, nàng trang sức rất đẹp, sắm sẵn những thức cúng dường để gợi ý trung nhân. Nhưng bóng ác càng cao, Ma Ðăng Dà càng nhìn trông mỏi mắt và cuối cùng phải thất vọng, vì đã quá ngọ mà vẫn vắng bóng hành khất của chư Tăng. Hoài công chờ đón như thế đến bốn năm hôm, hỏi ra nàng mới biết lúc này vào đầu mùa mưa, chư Tăng theo lệ thường mỗi năm phải ăn cư một chỗ trong vòng ba tháng. Nghe được tin ấy, nàng âu sầu khổ não, song cũng phải dằn lòng đợi dịp, không biết phải làm thế nào.

Lá tươi rồi héo, hoa nở rồi tàn, cảnh vật âm thầm biến chuyển mau lẹ theo cánh thời gian, thấm thoát đã đến ngày chư Tăng mãn hạ. Ðối với nàng Ma Ðăng Dà, ba tháng thật là mấy năm trường đằng đẳng! Nhưng việc sẽ đến tất phải đến, hôm nay nàng sẽ cảm thấy sống dậy một mùa xuân tươi đẹp mùa xuân ở cõi lòng. Từ sáng sớm, những thức cúng dường đã được sắp đặt đâu vào đấy. Công việc xong xuôi, Ma Ðăng Dà đến trước gương trang điểm, vừa đọc nhẩm mấy câu Phạm chú. Vẻ vui tươi đắc ý hiện rõ trên mặt nàng. Giai nhân lồng bóng trong gương, hai dáng xinh đẹp in nhau, phưởng phất như cành hoa Tịnh Ðế. Khi ánh nắng mai chiếu vào song cửa, trên con đường vào thành, hình dáng của đoàn Sa Môn đi khất thực lần lần lộ rõ và cũng lại gần, Ma Ðăng Dà vô cùng mừng rỡ, định thỉnh riêng ông A Nan đến trước nhà để tiện bề dùng huyển thuật. Nhưng lần này nàng rất ngạc nhiên, vì không thấy vị Tỳ kheo trẻ tuổi theo hầu Ðức Phật. Thêm một điều lạ: chư Tăng cùng đi thẳng, không dừng lại từng nhà để thọ cúng như mọi khi. Ma Ðăng Dà để ý nhìn từng vị Sa Môn lần lượt đi qua, nhưng cũng không thấy người mình muốn gặp. Mỗi nỗi buồn vô tả xâm chiếm tâm nàng, khi vị Sa Môn cuối cùng vừa đi khuất. Nàng để rơi mình xuống ghế, hai tay bưng mặt, choáng váng cả tâm thần. Không biết ngồi như thế được bao lâu, khi ngước đầu lên, Ma Ðăng Dà chợt thấy từ xa tiến đến một hình dáng quen thuộc. Nàng mở to đôi mắt nhìn kỹ người ấy không ai đâu lạ, chính là vị Tỳ kheo trẻ tuổi mà nàng đã thương nhớ từ lâu. Lòng rạo rực, nỗi vui mừng không thể tưởng tượng, nàng vội vả đứng dậy đón chờ.

Tại sao lại có việc như thế?

Nguyên vào lúc các thầy Tỳ kheo mãn hạ, nhân ngày kỵ phụ vương Ba Tư Nặc sắm những thức ăn quí lạ, mời Phật và chư Tăng thọ trai trong hoàng cung. Ðức Thế Tôn thân lãnh các vị Tỳ kheo thẳng đến cung vua để ứng cúng, nên không theo thường lệ đi từng nhà khất thực. Duy có ông A Nan trước đã chịu người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chung. Vì về trễ, ông đi giữa đường một mình. Nhớ lời Ðức Phật đã quở Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp và Tu Bồ Ðề làm A La Hán tâm không quân bình, ông kính vâng lời dạy vô giá của đấng Ðiều Ngự, ôm bát theo thứ lớp ghé vào từng nhà, kính giữ phép hoá trai.

Khi A Nan đi đến, nàng Ma Ðăng Dà đem thức ăn ra cúng dường đồng thời gọi thầm tên vị Tỳ kheo trẻ tuổi và đọc mấy câu Phạm chú, đoạn nàng xây lưng trở vào nhà.

Tay chân bủn rủn, thần trí không định, A Nan cũng nối gót theo sau. Lúc hai người đã vào đến phòng, như cây héo gặp mùa xuân, Ma Ðăng Dà giở đủ trò khêu gợi quyết tâm làm nổi dậy ngọn sóng tình trong con người tịnh hạnh. Trong giờ phút nguy hiểm ấy; tuy bất lực, song cũng còn tỉnh trí, A Nan tha thiết tưởng nghĩ: "Hỡi Ðức Từ Nghiêm! Nay con bị nạn, Ngài đành bỏ con sao?".

Khi ấy Ðức Như Lai thọ trai xong, đã về đến tịnh xá và đang ngồi thuyết pháp giữa vô số thính chúng. Ðấng Từ Nghiêm trí tuệ thần thông nghe thấy ông A Nan mắc nạn, liền từ nơi nhục kế trên đảnh, phóng ánh sáng trăm thứ báu rất tự tại nhiệm mầu. Trong ánh sáng có vô số hóa Phật, mỗi vị đều ngồi trên toà sen nghìn cánh, đồng thời nói ra thần chú bí mật. Ðức Như Lai khiến Ngài Văn Thù phụng trì chú ấy, đến dẹp trừ tà chú đem ông A Nan về. Ngài Văn Thù vâng lời đến, phóng áng sáng nói lại thần chú bí mật. Bấy giờ ông A Nan tâm trí sáng suốt, như cá đã thoát khỏi lướt, vụt chạy ra ngoài. Chưa được thỏa nguyện, bỗng mất người yêu, Ma Ðăng Dà cũng chạy theo A Nan tâm trạng như người cuồng dại. Khi ba người đã đến Tịnh xá, lòng si ái quá nặng, Ma Ðăng Dà sầu khổ bạch với Phật: "Xin Ngài trả ông A Nan lại cho tôi". Ðức Phật mĩm cười, dùng phương tiện bảo: "A Nan là kẻ xuất gia, nàng là thế tục, hình thức và đời sống của đôi bên đều khác, thế thì làm sao gần gũi nhau được? Nếu nàng chịu cạo tóc, mặc áo cà sa, ta sẽ giao A Nan lại cho". Trước tiên, Ma Ðăng Dà còn dùng dằng, nhưng bị ái tình làm mù quáng, đã thương trót phải liều, nàng nghĩ thầm: "Nếu Phật không giữ lời hứa, ta sẽ nắm áo Ngài và ông A Nan".

Nghĩ như thế nàng liền ưng thuận, sau khi đã thành hình thức xuất gia, Ma Ðăng Dà lập lại yêu cầu khi trước, Ðức Phật không đáp hỏi lại:

- Nàng thương A Nan vì chỗ nào?

- Tôi thương đôi mắt xinh đẹp của ông.

- Mắt của A Nan chỉ là hai khối thịt hôi, trong ấy chứa những nước mắt, ghèn dơ, có chỗ nào tinh sạch đặng cho nàng mến?

- Tôi thương cái mũi ông A Nan.

- Mũi của ông ấy có những chất nhớp bên trong và thường chảy ra thứ nước không sạch, nàng chẳng nên ưa thích.

- Tôi thương cái miệng ông A Nan.

- Miệng của A Nan có những nước miếng, đờm, dãi, nếu ông ấy không năng súc rửa, nơi đó sẽ đóng cáu bợn và tiết ra mùi hôi. Thế thì không đáng cho nàng yêu chuộng.

Sau khi đánh tan những chỗ ái chấp của Ma Ðăng Dà, Ðức Phật lại vì nàng giải thích, chỉ rõ thân người không sạch, mong manh chóng suy tàn, là nguyên nhân của sự đau buồn trong hiện tại và vô lượng nỗi khổ về sau.

Nghe lời chánh chơn hợp lý của Ðức Phật, như người trong bóng tối chợt bắt gặp ánh sáng, Ma Ðăng Dà đứng lặng suy nghĩ. Trước kia nàng lầm tưởng ái tình là vườn hoa tươi đẹp, đầy màu sắc rực rỡ, hương vị thơm tho, nơi ấy hẳn hứa hẹn cho thế gian một diễm phúc tuyệt trần. Nhưng hôm nay nhìn sâu vào thực tế, nàng mới biết nó là một mũi gai độc ẩn núp dưới lớp lá xanh; một sợi dây vô hình lôi kéo người vào ngục tối đau khổ, Tỉnh Giấc Mơ Hoa, nàng quan sát những lý: bất tịnh, khổ không, vô thường, vô ngã của Ðức Phật vừa khai thị, liền chứng được quả A Na Hàm. Vừa mừng rỡ vừa tủi thẹn, nàng cúi xuống đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin trọn đời làm đệ tử và phát nguyện sẽ dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi vòng hoa mộng, vào bản thể an vui trong sạch...


Hết
500




Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:


- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?


Ông lang quả quyết đáp:


- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.


Ông lão cau mặt nói:


- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết?


Ông lang xua tay nói:


- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?

854




Một người đàn ông lên đường đi nghỉ hè lúc vợ của anh ta đi công tác chưa kịp về. Họ sắp xếp kế hoạch gặp lại nhau vào ngày hôm sau. Tới nơi, anh ta vội vàng gửi e
-mail về cho vợ. Do đánh sai địa chỉ, bức thư của anh ta thay vì được chuyển về cho vợ, thì nó lại đến một phụ nữ có chồng vừa qua đời ngày hôm trước. Khi người vợ góa tội nghiệp nọ mở hộp thư, bức thư vừa hiện ra bà ta thét lên một tiếng khủng khiếp, té xuống sàn nhà và chết thẳng cẳng. Nghe tiếng thét, người nhà chạy vào phòng thì chỉ thấy một bức thư trên màn hình máy tính: "Vợ yêu quý nhất của anh, anh vừa đến nơi. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn để đón em vào ngày mai. Người chồng yêu quý nhất của em!"
2265





Trong một giờ giảng về ca dao, tục ngữ khi thầy giáo đọc đến đoạn:

"Chồng cày vợ cấy
Con trâu đi bừa..."

Ðột nhiên dưới lớp có tiếng vọng lên: "Con trâu đi bừa với ai nhỉ ???". Ngay lập tức thầy giáo đọc tiếp:

"May mà hôm ấy trời mưa
Có thằng con rể đi bừa với trâu..."


Truyện cười do bạn ca_kheo (Email: ca_kheo@yahoo) gởi đến Xitrum.net




o O o


Trong một cuốn lưu bút, người ta thấy học trò ghi cho nhau như sau:

"... Tao sẽ nhớ giọng hát của mày vào những trưa mùa hè (làm tao ướt nhẹp), giọng cười của mày vào những chiều mùa thu lạnh lẽo (làm tao lên huyết áp nóng lạnh), hình ảnh của mày vào những tối mùa đông (nhát ma cho tao bất tỉnh mà... ngủ dễ hơn). Nhớ mày nhiều !!!...


Truyện cười do bạn URSA (Email: namtuoc21@yahoo) gởi đến Xitrum.net




o O o



MR1: Mấy giờ rồi?

MR2: Kém mười.

MR1: Kém mười là đúng mấy giờ?

MR2: Không biết! Vì đồng hồ của tao bị... mất cây kim giờ!!

1118




Một linh hồn vừa qua đời, lên đến cổng Thiên Ðàng, anh ta gặp Thánh Phêrô đang đứng trước cửa.

- Chào con! Thánh Phêrô nói - Con sẽ vào Thiên Ðàng, nếu con kể cho ta nghe ít nhất một việc làm dũng cảm mà con đã làm được khi còn sống!

Anh ta suy nghĩ một lúc rồi nói với Thánh Phêrô:

- À! à! Có một lần, con ngồi xem trận chung kết bóng đá giữa 2 đội Asernal và MU! Con đã la lớn: "Asernal vô địch!" khi con đang ngồi giữa các cổ động viên đội MU!

- Thế à? Thánh Phêrô ngạc nhiên hỏi - Thế con làm việc đó cách đây bao lâu rồi?

- Mới đây thôi, thưa cha!

903




Mẹ nói chuyện với con trai về nàng dâu:
- Này Bob, con vợ mày ngày xưa nói năng cộc lốc, nhanh như máy nổ...
- Dạ... dạ... hồi đó nhà con còn trực ở tổng đài trả lời miễn phí, nên có bị nhiễm đôi chút bất nhã, mẹ bỏ quá cho.
- Nhưng bây giờ thì nó còn tệ hơn, phải cạy miệng mới nói được một tiếng, mà lại còn ề à, chậm chạp.
- Vâng, mẹ ơi, dạo này cô ấy chuyển sang tổng đài tư vấn có tính cước rồi!


Cô vợ bị bỏng nặng, phải ghép da mặt, anh chồng tình nguyện cho cô mảng da ở mông của mình. Sau phẫu thuật thẩm mỹ, người vợ xúc động nói với chồng:
- Anh yêu, cảm ơn anh biết bao vì những gì anh đã dành cho em!
- Ồ, có đáng gì đâu, vả lại, thấy mẹ em hôn lên má em là anh mãn nguyện rồi.


Kiến trúc sư hỏi chủ nhà:
- Ông định xây căn nhà theo kiểu nào?
- Tôi muốn nó phải đủ rộng để vợ tôi sau khi lau dọn, không còn sức lê la hàng xóm, nhưng lại đủ chật để mẹ cô ấy không có ý định ở chung.
1784




Có một tai nạn vì điện, tại hiện trường, thanh tra cảnh sát hỏi ông chồng:
- Ông nói là nghe thấy tiếng bà nhà kêu thét lên, tại sao ông không chạy vào bếp để cứu?
- Mọi khi vẫn thế, bà ấy có làm sao đâu!
- Ông muốn nói rằng, vợ ông vẫn thường xuyên bị điện giật?
- À không, bà ấy vẫn thường xuyên thét lên như vậy.
1775




Hello!


     Tiếng chuông điện thoại reo vang khi cô đang thu xếp đồ đạc vào xách tay, chuẩn bị về nhà sau hơn 10 giờ làm việc của một ngày. Cô bực bội nhìn nó, cô không thích điện thoại, nó chỉ đem lại cho cô cảm giác gò bó, bực bội; nó là sợi dây trói cô vào cuộc sống đầy trách nhiệm, vào nhịp sống công nghiệp hiện đại vội vàng chụp giựt.

Nhưng vì là cuộc sống hiện đại, nên cũng... không thể thiếu nó; thử vứt đi xem, sẽ có người đăng báo, lên đài truyền hình tìm cô ngay...!

Cô miễn cưỡng cầm điện thoại lên, có lẽ chồng cô gọi để hỏi vì sao cô về muộn, cũng có thể một cô bạn nào đó hẹn đi shopping; cô bật máy:

- Hello!

Một quãng lặng...

- Hello!

Cô lặp lại, thêm phần bực bội.

- Chào em, có nhận ra nhau không?

Một quãng lặng, lần này từ phía cô...

Giọng nói rất rõ, vì thế cô nhận ra nó từ nơi xa lắm, nó từ một nửa vòng trái đất vọng tới, từ mười lăm năm trước vọng về. Tim cô đập dồn...

- Em còn đó không?

- Dạ còn...

Cô ngắc ngứ, chẳng biết nói gì. Cái giọng nói cho cô cảm giác gần gũi và thân thương mà từ rất lâu cô không còn gặp nữa, nó kéo mười lăm năm quay ngược về...

- Anh khỏe không?

Cô ấp úng hỏi. Một tràng cười vui vẻ, giọng cười cũng sảng khoái và quen thuộc:

- Trời ơi! Có vẻ Mỹ hóa quá hả? Câu đầu tiên phải là hỏi thăm sức khỏe. Anh không khỏe, gọi để mời em dự lễ tang của anh dây.

- Không giỡn kiểu đó nha!

- Không phải sao? Em chôn anh mười lăm năm nay, không kèn không trống gì hết, anh phải nhờ thám tử truy tìm em, để nói với em là em có muốn chôn anh, thì cũng phải làm cho anh cái lễ tang chứ!

Giọng anh vẫn vui, nhưng cô biết anh đang hờn trách, và tự trong tim cô cảm thấy nhói đau. Phải! Cô đã chôn anh, chôn sống anh mười lăm năm nay! Và giờ đây anh hiện về...

Như vừa đi qua cánh cửa thời gian, đứng giữa quá khứ. Cô hỏi, giọng bỡ ngỡ:

- Sao anh có số phone của em?

- Tại em lấp đất không kín, nên anh ngoi lên được. Kể cũng lạ thật, giữa thời hiện đại này mà tìm một người mất hết mười lăm năm!

Mười lăm năm, một khoảng thời gian để cô có thể chia cắt quá khứ và hiện tại, mười lăm năm đã quên hay mười lăm năm để quên?!

Cô đã sống cho hiện tại, không còn hồi tưởng, không còn nhớ nhung. Tránh xa quá khứ để sống; đâu còn thời gian để gặm nhấm những nỗi đau, những mất mát trong đời. Chưa một lần dám trở lại, dù chỉ trong ý nghĩ. Có bao nhiêu người đã trở về, về thăm quê hương, gia đình, bạn bè. Và trong sâu thẳm lòng mình, ai cũng biết về với kỷ niệm và con người của kỷ niệm. Cô không muốn và không nghĩ đến điều đó. Cô đã gạt bỏ nó, đã đánh đổi nó, và cô phải đối diện với sự thật.

Có sự chọn lựa nào không? Đừng dành cho quá khứ lòng vị tha, để quên đi điều lầm lỡ, những sai trái của chính mình và của mọi người, hòng biến quá khứ thành vàng son kỷ niệm. Cô không thể quay ngược lại thời gian, và dù có quay ngược trở lại, cô có thay đổi gì được không?

Có sự chọn lựa nào không cho một người phụ nữ hai con có hồ sơ xuất cảnh đi Mỹ do chồng bảo lãnh, đang bị gia đình và dư luận lên án vì tình yêu tội lỗi dành cho anh chàng sinh viên trẻ tuổi hơn mình?

Cô đành chôn đi tình yêu đó, không muốn một lần trở lại, đối diện với nó hay với những khắt khe lên án nó. Cô không muốn nuôi dưỡng nó dù chỉ trong tâm tưởng, để mà mang mặc cảm có lỗi với chồng. Thật lòng thì ít ra cũng có bia mộ của anh trong tim cô. Và giờ đây, tiếng nói của anh ấm áp bên tai cô, và từ trong tấm bia mộ đó anh hiện rõ nguyên hình.

- Anh mập hay ốm?

- Hơn ngày xưa mười lăm ký.

- Chắc gặp anh nhận không ra đâu há?

- Anh sẽ nhận ra em dù chỉ cho anh nhìn đôi mắt hay một ngón tay.

Tim cô lại nhói lên đau đớn đến lặng người.

- Em cũng thay đổi nhiều, mập ra, xấu đi.

- Thời gian có tha cho ai đâu, ai cũng phải thay đổi chứ, nhưng có những thứ không thay đổi và nhờ thế người ta nhận ra nhau. Phải vậy không em?

Nhận ra nhau?! Để làm gì? Cô chưa bao giờ nghĩ đến một lần trở lại quê nhà cũng chỉ để trốn tránh chuyện gặp lại anh. Lẽ nào cô về Việt Nam mà không gặp lại anh? Việc đó quá tàn nhẫn đối với cô, với anh...

Còn gặp lại nhau?! Cô quá mệt mỏi để đối phó với những điều tiếng của dư luận, những lên án, chỉ trích của gia đình, họ hàng, những ghen tuông của chồng. Cô chưa bao giờ cho mình một cơ hội tìm những niềm vui, hạnh phúc riêng...

Cô đã chấp nhận sống cầu an, chỉ mong ngày tháng trôi qua bình lặng. Việc đối phó với những thay đổi mà xã hội hiện đại này mang đến đã làm hao mòn nghị lực của cô rồi. Cô đã phải ngày ngày kiếm sống, lo sợ thất nghiệp, lo không trả nổi những hóa đơn trả góp, sẽ mất nhà, mất xe. Lo con hư hỏng, lo chuyển nhà mỗi khi chồng cô hay cô bị nghỉ việc, đi xin việc làm mới khi tuổi đời ngày càng tăng...

Cô không có một khoảng thời gian, tiền bạc, tình cảm và cả nghị lực cho một ngày trở về, làm sao anh có thể hiểu được điều đó?!

- Sao em cứ im lặng hoài vậy? Em không muốn nói chuyện với anh hả? Hay không có chuyện gì để nói?

- Anh hạnh phúc không?

- Ừ! Câu này nghe được hơn câu ''Anh khỏe không?''. Anh sống được.

- Anh chờ em một chút nhé, em ra lấy xe, trên đường về nhà mình nói chuyện tiếp.

Lại một khoảng lặng dài, nhưng từ ống nghe, anh nghe tiếng giày gõ lóc cóc trên đường, tiếng sột soạt của túi xách khi cô tìm chìa khóa, tiếng đóng cửa xe, tiếng máy và cả tiếng tít tít của đèn xi nhan. Cô như hiện rõ trước mắt anh...

Cô đã ở trong tim anh từ ngày ấy, từ ngày đầu anh gặp cô. Tình yêu đến có ai ngờ, nếu được chọn cho mình một tình yêu, anh đâu chọn con đường gian nan, đau khổ đến vậy. Cô gái mà anh gặp ngày đó, điệu đàng, nhí nhảnh, xinh tươi, duyên dáng ấy, lại đã làm vợ và làm mẹ của hai thằng nhóc lên năm, lên bảy. Nếu có thể bảo với tình yêu: ''Xin đừng đến'', anh đã có thể tránh xa cô. Ngày ấy anh còn quá trẻ để biết được những va chạm của hai khái niệm, một hết sức trừu tượng là tình yêu và một hết sức cụ thể là vật chất, lại có thể làm người ta đau đớn đến vậy! Cô không bi
ết anh đã cảm thấy lòng tự trọng của mình bị nghiền nát ra sao, đau đớn đến mức anh muốn tự hủy diệt mình khi nghe cách người ta bình phẩm về tình yêu của anh dành cho cô, theo kiểu nhìn thực dụng: chàng sinh viên nghèo đi dụ dỗ người đàn bà có con đang sống xa hoa bằng tiền chu cấp của chồng bên Mỹ!

Nhưng anh hiểu rõ những điều cô phải trả giá cho tình yêu dành cho anh: những lời đàm tiếu, dị nghị từ phía gia đình chồng, những lời chê trách, lên án gia đình, và cả cuộc sống mà cô phải chịu đựng khi gia đình trong đoàn tụ nữa.

Anh là người có tội, anh đã gây ra cho cô tất cả những điều bất hạnh! Vì thế anh đã phải tuân thủ những quy luật của cuộc sống này, chịu sự trừng phạt: Họ đã cách ly anh ra khỏi cô suốt mười lăm năm trời. Không một dòng thư, không một hình ảnh, tin tức. Anh đã ngoan ngoãn chấp nhận hình phạt đó! Mười lăm năm! Một quãng thời gian khá dài trong một đời người, đủ cho một thế hệ lớn lên, như các con của cô nay đã lớn. Rồi đến một ngày anh bỗng nhận ra anh không thể chờ đợi ở lòng vị tha của con người, anh phải tự xá tội cho mình, anh không chấp nhận án chung thân! Và giờ đây giọng nói của cô ấm áp bên tai anh, anh nhìn thấy cô qua những âm thanh vọng lại....

- Rồi, anh nói chuyện đi.

- Em chỉ có thể nói chuyện với anh trong khi lái xe thôi hả?

- Hình như vậy?

- Từ chỗ em làm về nhà mất bao lâu?

- Khoảng người lăm phút.

- Em có thể tấp vô quán cà phê nào đó không?

- Không giống ở Việt Nam đâu, chẳng có quán cà phê nào cả, và em phải về làm bữa tối, nếu về trễ, mọi người lại gọi điện tìm, mà điện thoại lại đang bận.

- Anh hiểu rồi! Vậy em lái chậm thôi nhé.

- Em đang chạy trên làn xe chạy chậm đây.

Anh cảm thấy cô thật gần, cô cũng cảm thấy anh thật gần, khoảng cách mười lăm năm biến mất, và những trắc trở của ngày xưa cũng hiện về như cũ: trách nhiệm, bổn phận, đạo đức, lý trí, những lời mỉa mai, chê trách... Cô bỗng nhớ đến những điều anh viết: ''Nếu em có cả cuộc đời của anh, em sẽ làm gì với nó? Không có chỗ dành cho nó, phải không em. Vậy mà điều duy nhất anh có thể dành cho em. Là cuộc đời anh đó!''. Cô nói thành tiếng:

- Thật ra em không có gì thay đổi đâu, mọi thứ hình như vẫn như xưa.

Anh như đọc được ý nghĩ của cô:

- Có nghĩa là em vẫn không có thời gian dành cho anh, không có chỗ dành cho anh?

Bỗng nhiên cô muốn khóc, cô không có gì thuộc về mình để dành cho anh, dù cô yêu anh. Anh không biết rằng với cô anh là người yêu đầu tiên và là duy nhất. Khi cô biết anh, cô đã là bà mẹ trẻ: vừa xong trung học đã lấy chồng, một người do ba mẹ cô chọn, cô chẳng phản đối, chồng cô là một chàng sĩ quan bảnh bao, con nhà đạo dòng, tính tình cũng dễ thương. Lấy chồng lính xa nhà, sau giải phóng chồng cô đi cải tạo, rồi vừa được về nhà anh lại vượt biên sang Mỹ. Những ngày vợ chồng hiếm hoi cũng đủ để cho cô trách nhiệm làm mẹ hai đứa trẻ. Chính những ngày dài chờ đợi đoàn tụ gia đình, cô đã gặp anh! Cô còn gì của riêng mình dành cho anh? Không thể ngăn trái tim mình, không thể bảo ''Tình yêu ơi! Xin đừng đến”, cô đã trả giá cho nó quá đắt, trả đến tận bây giờ! Nếu chồng cô biết cuộc gọi này, liệu bữa cơm tối có nuốt trôi?

- Vậy em qua Mỹ làm gì? Người ta thường cho rằng đi sang đó để tìm hai thứ: tiền bạc và sự tự do? Em có được thứ gì?

Lần này thì cô khóc thật, anh thừa biết cô ra đi vì bổn phận. Anh cắn răng chấp nhận việc cô ra đi vì anh là chàng sinh viên giàu sĩ diện, nhiều tự trọng nhưng nghèo tiền bạc. Cũng không đủ tự tin để gánh trên vai mình vợ và con kẻ khác. Tiền bạc và tự do, anh đã có đủ mà không cần phải tha phương cầu thực, điều đó cho anh lòng tự tin để tha thứ cho những sai lầm mình đã phạm phải và cả những sai lầm của kẻ khác. Đất nước mình có nhiều đổi thay, và anh cũng có cơ hội để thành đạt; còn đất nước này, từ ngày cô sang đây, nó vẫn thế, chưa kể những suy thoái kinh tế mà tác động trực tiếp của nó vào đời sống của gia đình cô ngày càng nặng nề hơn; như việc hãng làm của chồng cô đóng cửa vì phá sản, dẫn đến chuyện chồng cô mất việc làm sau mười mấy năm làm việc mà chẳng được hưởng gì ngoài trợ cấp thất nghiệp!

Cô cố giữ để giọng nói mình không thay đổi, dù nước mắt vẫn lăn dài, cô không muốn anh xót xa thương hại cô, cô thù ghét lòng thương hại.

- Anh có cả hai thứ đó hả?

Giọng anh ương bướng:

- Ừ.

- Anh có vợ chưa?

- Có.

- Anh yêu cô ấy chứ?

- Có yêu

- Vì cái gì?

- Vì cô ấy yêu anh, yêu cả quá khứ của anh, chấp nhận nó vì nó là một phần của anh.

- Trong quá khứ của anh có gì mà anh xem như một điều kiện vậy?

- Có em!

Cô lặng người, tình yêu này là gì? Nó đắng cay và ngang trái quá, thế sao nó cứ sống mãi để ám ảnh đời nhau thế này? Cô nghĩ về người phụ nữ là vợ anh: Cô ấy chắc là một người khá toàn diện, phải đủ sâu sắc để có thể sống với một người như anh và làm cho anh yêu. Cô ấy đã chấp nhận cả sự có mặt của cô trong quá khứ của anh, nhưng chỉ là quá khứ, chứ không phải trong hiện tại...

- Có vợ mà vẫn có tự do hả?

- Tại sao không? Phải tôn trọng đời riêng của nhau chứ.

- Thế vợ anh có yêu người nào trước khi gặp anh không?

- Anh không biết.

- Tại sao anh không biết?

- Anh tôn trọng đời riêng của cô ấy nên không hỏi, nhưng anh nghĩ rằng có. Tại sao em lại hỏi những chuyện như thế?

- Em chỉ muốn biết anh có hạnh phúc không.

- Anh muốn gặp lại em biết bao!

- Để làm gì?

- Để được nhìn thấy em.

- Và làm gì cho em?

- Làm tất cả những gì em muốn.

- Em không muốn gì cả, hãy nói những gì anh muốn.

- Anh muốn trải hoa hồng trên lối em đi.

- Cả hành lang và cầu thang khách sạn?

- Tất cả lối em đi.

- Lãng mạn quá chàng ơi! Em đến nhà rồi, em phải vào nhà đây.

- Khoan, em sẽ về chứ?

- Em về với thực tại đây. Em sẽ về nếu anh trải hoa hồng trong căn phòng khách sạn nơi vợ anh gặp lại người yêu cũ.

- Anh không thích em nói kiểu đó.

- Hãy nghĩ về điều đó, vì mình già hơn xưa, cách nghĩ cũng phải thay đổi chứ. Anh đang kéo quá khứ về với hiện tại đấy. Cô ấy có thể chấp nhận em ở thì quá khứ nhưng không đời nào chấp nhận em ở thì hiện tại đâu, tỉnh lại đi, anh không có nhiều tự do như anh nghĩ đâu. Em vào nhà đây. Bye bye.

- Khi nào anh gặp lại em?

- Khi nào anh gọi.

Cô cúp máy, nức nở khóc với ý nghĩ sẽ phải đổi số điện thoại. Tại sao, tại sao cô cứ phải làm những việc đau lòng là lìa bỏ anh? Tìm mọi cách tránh xa anh? Cuộc sống của cô coi như bỏ đi vì sự có mặt của anh trong đời, cô không muốn cuộc sống của anh bị cô hủy hoại. Cô sẽ chôn anh, chôn cô, chôn mối tình này vĩnh viễn. Bản thân mình có hạnh phúc đâu mà còn lôi kéo người khác vào nỗi khổ.

Anh nhận ra tiếng nấc của cô trước khi đường dây bị cắt, anh lạnj người khi nghĩ đến chuyện mình sẽ chẳng bao giờ gọi được cô nữa. Anh rùng mình như bị tuyên án chung thân!

Vừa mới đây thôi, giọng cô còn thì thầm bên tai anh, vẫn cách nói như ngày nào. Anh nhìn vào chiếc điện thoại, cũng từ đó, tiếng nấc của cô? Cô đưa tang anh thật rồi, cô chôn anh thật rồi!

Những cuộc gọi vẫn đều đặn được anh thực hiện, với hy vọng mong manh sẽ có tiếng “Hello” khiến anh lặng người.



Tác Giả: Nguyễn Thị Mỹ Liên

55


Powered by Blogger.