Giờ học đã điểm mà chỉ thấy lác đác mấy cậu sinh viên ngoại trú, một lúc thấy các cậu sinh viên nội trú ký túc xá xếp hàng xin vào lớp với mái đầu bóng mượt, dáng đi oai phong. Thầy giáo hỏi:
- Tại sao hôm nay các anh lại rủ nhau đến trễ giờ quá vậy?
- Dạ, thưa thầy! - một sinh viên nội trú đáp – sáng nay ký túc xá đã có nước sau hơn một tháng tụi em mong đợi. Mong thầy thông cảm cho bọn em ạ!
- !?
Hai cha con người Gabrovo đi biển, đang lênh đênh ngoài khơi thì gặp bão. Ông bố ngửa mặt lên trời cầu khẩn:
- Lạy Chúa, xin Ngài hãy thương lấy chúng con. Qua được cơn bão này, con sẽ xin dâng Ngài một cây nến dài như cột buồm...
- Bố ơi, bố tìm đâu ra một cây nến dài như vậy?
- đứa con rụt rè hỏi.
- Im ngay, thằng ngốc!
- ông bố giận dữ
- Cứ để bão lặng đi đã, sau đó rồi tính.
2137
Đó là một ngọn đồi bình thường bên lề quốc lộ, có một lối đi lên dài ngoằn ngèo được đắp kỹ bằng đất lèn có lót đá chẻ, đủ để thử thách mọi đôi chân dẻo dai nhất. Một ngọn đồi nằm quay mặt ra hướng biển, nhìn xuống đoạn quốc lộ vắng vẻ, tuyệt không một hàng quán, một nóc nhà nào. Phía bên hông ngọn đồi thoải xuống là mấy dãy nho um tùm không có trái vì đã hơn một năm nay không ai tưới tiêu gì. Cuối dãy nho dài là bờ sông, đoạn hướng ra cửa biển, nước cạn và lờ lợ theo từng con nước thủy triều. Đúng hơn đó chỉ là cuối nguồn của một con suối lớn chảy qua cây cầu nhỏ vô danh trên quốc lộ. Một nơi bình thường và buồn vắng. Không điện, không có địa chỉ, không có hàng xóm. Đầy gió và nắng.
Anh mua cả ngọn đồi này khi đi ngang qua đây trên chuyến xe tốc hành xuyên Việt, nơi được chọn để làm chỗ dừng xe cho hành khách xuống “xả hơi” mươi phút sau một hành trình dài. Anh thấy nó đẹp, mà hơn cả là nó hợp với anh. Anh nghĩ chị sẽ thích nó nhiều. Hơn một năm trước khi anh đến đây thì nó là một trang trại trồng nho xanh và nuôi thỏ của một gia đình có tám người con. Ba người con đầu kéo nhau đi vượt biên mười mấy năm trước, giờ quay về với chút tiền đã bảo lãnh cả nhà ra nước ngoài định cư. Đó là họ cứ thao thao bất tuyệt với anh đủ mọi thứ như vậy chứ anh nào có chú ý gì. Cái giá năm mươi triệu cho cả một ngọn đồi, một căn nhà ba gian mái ngói và toàn bộ vật dụng là khả dĩ chấp nhận được. Anh không cò kè một đồng nào. Giấy tờ được sang tên cho anh sau khi anh dọn về được mươi hôm. Vắng thật. Ở đây cái vắng lặng kéo dài và xa xăm đến vô cùng. Thỉnh thoảng chỉ có tiếng động cơ xe rít lên ngoài quốc lộ kéo theo một luồng khói bụi nhỏ, mờ dần rồi khuất hẳn phía bên kia cầu. Chỉ có vợ chồng ông già người Chăm bán tạp hóa phía trên mỗi tuần ghé lại để cho anh ít đồ dùng. Một cây thuốc lá, một lạng trà, hai chai rượu, tiêu hành ớt tỏi… Tiền thì anh đã đưa họ trước một triệu, cứ thề trừ dần.
Rồi anh về tận quê chị ở cách đó chừng hơn trăm cây số, đưa chị về ở chung. Chị vui lắm, căn nhà bắt đầu ấm lên vì anh cười nói suốt ngày. Anh chỉ cho chị xem mọi chỗ trong nhà, ngoài vườn, giếng nước, chỗ anh thường uống trà nhìn xuống thấy cả biển và cái cửa sông vô danh. Anh thấy chị cười. Nụ cười vẫn cứ buồn buồn như khi anh mới làm quen chị lần đầu mấy năm trước nhưng chừng như có ánh lên chút long lanh, chút hy vọng mới. Anh nói: cuối cùng mình cũng làm được. Có gì khó đâu em, mình cũng chỉ từng ước mơ như vầy thôi. Rồi anh thả hết lũ thỏ trong chuồng vào vườn nho, cắt hết trái xuống cho chúng ăn thỏa thích, thả luôn cả con khỉ con của chủ nhà cũ vào. Chim chóc cũng kéo về làm tổ đầy trên mấy dàn nho um tùm. Cho nó thêm màu xanh, anh làm theo ý chị.
Ban ngày lúc nước lên cao anh thường ra câu cá chỗ chân cầu. Cần câu anh đã có sẵn ba cái, bộ dồ nghề câu của anh mang từ Uùc về chắc đủ dùng đến cuối đời. Mồi câu là cơm nguội bóp với ngũ vị hương. Anh câu được đủ loại cá, mà anh chả biết gọi tên là gì. Cá câu về thường anh chỉ làm độc một món: Nướng. Vậy mà chị vẫn khen anh khéo làm bếp. Thường ngày anh chị ăn có khi hai, có khi ba, bốn lần cơm. Vô chừng lắm. Chị thích thế. Chẳng có gì ràng buộc. Bầu, bí, mướp còn đầy bên cái giếng nước sau vườn. Thích ăn gì nấu nấy. Bếp lửa nhà anh luôn có khói lên như anh vẫn thường mơ ước ngày xưa. Chỉ có điều không có đứa con, nhưng mà cũng không sao vì anh chỉ cần có chị.
Chị vẫn cười với anh mỗi khi anh đi câu về. Nụ cười vẫn một vẻ như vậy nhưng anh biết chị vui. Mà bây giờ đối với anh, anh chỉ cần chị vui.
Anh quen chị từ khi còn học nội trú ở Thủ Đức. Anh thường ra uống cà phê ở quán của chị, hay đúng hơn là chị phụ bán ở đó. Anh thích chị vì giọng nói miền Trung nhỏ nhẹ, đôi mắt cười buồn buồn. Nói chung không rõ ràng nhưng anh chỉ biết mình cảm thấy thích chị nên anh lui tới quán hầu như mỗi ngày. Quán chỉ có hai vợ chồng, một thằng em bà chủ và chị. Chị là cháu kêu ông bà chủ là Cậu Mợ, chắc có bà con vì nghe giọng nói cả nhà đều âm hưởng Miền Trung. Chị không đẹp, da hơi ngăm, tóc dài, mũi hếch, mắt mí lót. Bàn tay chị lại bị phỏng từ cánh tay xuống tạo nên một vết sẹo lớn trông rất xấu. Nhưng anh vẫn thích chị. Khi yêu nhau rồi chị hỏi tại sao anh vẫn thật tình không giải thích được. Hoàn cảnh của chị thật khổ. Mỗi chuyện chị kể cho anh nghe sau này khi nhớ lại anh đều chảy nước mắt. Khổ quá
Cha mẹ chị mất khi chị vừa hai tuổi, ngay khi đất nước vừa hòa bình. Một trái mìn còn sót lại sau mấy năm chiến tranh đã biến họ thành từng mảnh xương thịt rời rạc. Bà ngoại nuôi chị lớn chỉ bằng khoai lang, rau lang và tép kho mặn. Thứ tép Miền Trung nhỏ xíu như cây tăm mà người siêng năng đi xúc một ngày chỉ được chừng hơn nắm tay. Từ nhỏ chị đã gặp đủ thứ nạn: Té xuống từ mái nhà, chìm đò, phỏng nước sôi… rồi đủ thứ bệnh của con trẻ mà bà ngoại chỉ biết cho chị nhai Quế khô rồi xức dầu nóng cho qua cơn. Vậy mà chị vẫn lớn lên được. Có lần chị đi chăn bò cho nhà xóm trên, mải chơi thế nào để bò ăn lúa của ông Trưởng Aáp, bị ông ta lấy ngọn roi mây còn nguyên gai đánh cho tứa máu khắp người. Đêm về bà ngoại xức dầu cho chị mà nước mắt bà chảy hai hàng, bà nói cái số con này chỉ có chết mới hết khổ thôi. Khổ quá con ơi. Rồi bà cũng mất mấy năm sau đó. Chị phải đi làm thuê làm mướn đủ nghề để kiếm cơm sống qua ngày. Có ông Cậu họ về chôn bà trong cái chiếu duy nhất trong nhà rồi thỉnh thoảng ghé cho chị ít bánh trái, hoặc dăm ba đồng lẻ. Rồi mội đêm tối trời ông cậu mò về nhà, người sặc mùi rượu đã giở trò đồi bại với chị. Mới mười bốn tuổi đầu chị có biết gì đâu. Chỉ biết đau. Đau quá. Sáng ra ông cậu cho chị năm phân vàng dặn chị đừng nói gì. Chị cũng im.
Rồi chuyện đó cứ thỉnh thoảng lại tiếp diễn đến hơn năm trời thì chị bắt đầu khó ở. Chị có thai. Mới mười lăm tuổi đã có thai. Chuyện ông cậu đi về rồi cũng đến tai bà mợ ở huyện. Bà cùng đứa con gái và một người em kéo tới nhà đánh chị một trận thừa sống thiếu chết. Họ lột trần chị, đá vào bụng cho cái thai chết đi, rồi họ cắt tóc, xát muối ớt vào mắt chị. Đủ trò ác độc. Mấy người trong xóm cùng anh công an xã đưa chị đi cấp cứu ở Huyện. Ông cậu lén lút nửa đêm vào thăm, dúi vào tay chị năm chỉ vàng. Chị cười buồn bã. Chỉ phải mổ hai lần mới bình phục, nhưng chuyện có con như bao người phụ nữ khác sẽ không còn nữa.
Vậy đó, rồi chị lưu lạc vào Sài Gòn theo sự chỉ dẫn của một người bà con tốt bụng để tìm một ông Cậu họ khác, phụ bán cà phê. Hai năm sau ngày quen nhau anh mới nắm bàn tay chị. Bàn tay có vết sẹo dài, sẫm màu và xấu xí ấy làm anh cảm thấy hết nỗi cơ cực trong con người chị. Anh thương chị quá nhưng chỉ biết vậy, đời anh anh còn chưa lo xong làm sao tính chuyện khác được. Chị làm việc hầu như từ tảng sáng đến tối mịt không lúc nào rảnh rỗi để có thể cùng anh hẹn hò, mỗi khi anh tới chị chỉ mang ra cho anh một ly đen nóng như lệ thường và kèm thêm một ánh mắt trìu mến, đa cảm hơn mà thôi. Rồi một ngày lúc anh vừa bắt đầu thời gian thực tập tốt nghiệp thì hay tin chị bị đuổi. Cậu mợ chị bị mất ba trăm ngàn đồng và họ cho rằng chị lấy nên đã lén lục tung đồ đạc của chị, thấy có mấy chỉ vàng họ càng thêm nghi ngờ chị đã ăn cắp tiền của họ nhiều lần. Mặc cho chị van xin thế nào họ cũng không nghe, hai người lột lấy hết tiền vàng của chị và đuổi chị về quê. Quá đau đớn, chị không thể khóc thành lời, đôi mắt dại đi, xa xăm dần. Anh đi tìm chị suốt đêm mới gặp được chị ở bên đường quốc lộ, đói lạnh và đau khổ. Lần đầu tiên anh ôm chị trong tay và hôn lên môi chị, hôn lên bàn tay đầy sẹo của chị, hôn lên đôi mắt đã đờ đẫn vì đau khổ của chị. Anh nói trong nước mắt: Thôi đừng buồn nữa, từ nay có anh rồi…
Anh tìm một chỗ trọ rẻ tiền để chị ở tạm, rồi hằng ngày anh đến thăm, chở chị đi chơi đây đó bằng chiếc xe máy cà tàng của anh. Có lẽ đó là thời gian hạnh phúc nhất của chị mà cũng là của anh nữa. Biết bao nhiêu nơi họ từng ghé qua, công viên, bến tàu, rạp chiếu phim… biết bao nhiêu kỷ niệm mà sau này khi nhớ lại anh vẫn mỉm cười sung sướng. Chị thường gục đầu vào ngực anh rồi mỉm cười. Nụ cười vẫn y như vậy, vẫn là nét buồn cố hữu có pha chút hạnh phúc vừa chớm. Anh biết đàn guitare. Anh thường đàn hát cho chị nghe đến khuya. Những bài hát chị thích và những bài cả hai cùng thích, cả những bài anh thích mà chị không thích. Anh đàn không hay, ngón đàn chỉ học lõm từ những ngày nội trú nhưng đối với chị thì tuyệt vời lắm. Mấy người quanh nhà trọ vẫn thường tấm tắc khen anh chị đẹp đôi. Những lúc như vậy mắt chị lại long lanh thêm một phần. Anh cố gắng chạy tìm việc cộng với chút học bổng còm cõi để nuôi hai miệng ăn, tránh cho chị phải đi làm. Anh hứa sẽ không bao giờ để chị khổ nữa. Chị gật đầu, nhớ lại câu nói của bà khi còn bé. Bất giác thở dài.
Họ ở với nhau chừng hơn hai năm. Hai năm hạnh phúc tưởng chừng như bất tận. Họ mơ ước về một gian nhà đơn sơ, có vườn cây xung quanh, có giếng nước trong, có hàng dâm bụt chạy quanh sân. Một mái nhà yên bình có trồng nhiều hoa, vài loại rau, có khói tỏa lên từ chái bếp… Đêm đêm anh đàn hát cho chị nghe bên tách trà thơm, dưới giàn hoa thiên lý hay bất cứ hoa gì mà anh có thể trồng. Bao nhiêu mơ ước giản dị và đẹp đẽ đã cùng họ dệt nên một bức tranh tương lai, nơi không còn bất cứ nỗi buồn nào ánh lên trong đôi mắt chị.
Rồi anh được công ty cử đi học ở Uùc sáu tháng. Anh lưỡng lự bàn với chị xem có nên đi hay không. Chị bảo anh cứ đi, tất cả vì tương lai hai đứa thôi. Mơ ước là mơ ước, còn mình phải sống cho hiện tại nữa. Chị động viên anh đi học để lo cho tương lai sau này vì sau khi đi học anh sẽ được cất nhắc lên chức vụ cao hơn, thu nhập cao hơn nhiều so với hiện nay. Anh khăn gói ra đi, để chị lại một mình trong căn phòng trọ. Mấy ngày đầu anh viết thư, gọi điện về liên tục. Anh nhận thấy hình như chị có vẻ kém nhiệt tình hơn trước nhiều. Anh buồn nhưng không dám nói ra. Rồi những lá thư cuối không thấy chị trả lời. Anh nóng ruột lắm, chỉ mong đến ngày về để hỏi chị tại sao.
Anh về đến phòng trọ lúc tảng sáng. Căn phòng khóa trái từ bên ngoài. Anh bàng hoàng đứng lặng bên cạnh cả đống quà anh mua cho chị. Những chiếc váy xinh xắn, chiếc cài tóc, cái máy ảnh, máy CD…Bà chủ nhà trao chìa khóa cho anh: Cô ấy vừa đi cách đây hai hôm, cổ có trao lại cho cậu bức thơ này.
Anh nhận ra nét chữ nghuệch ngoạc của chị. “Anh. Em không thể tiếp tục giấc mơ của mình. Chúc anh nhiều hạnh phúc. Đừng tìm em.” Anh không hiểu chuyện gì cả, anh lục tung tất cả đồ đạc trong phòng để tìm một dấu vết. Không có gì. Không có ai đến thăm chị trong những ngày anh đi vắng. Chị đi đâu. Không ai biết.
Anh lái xe lang thang khắp nơi tìm chị. Anh hỏi từng người dù quen hay không quen. Có người nhớ ra anh nhưng cũng nhiều người không nhớ. Họ nói anh điên.
Anh đến tất cả những nơi họ từng ghé qua, hỏi cả quán cà phê nơi chị từng phụ bán. Bà Mợ chị vẫn vậy, cười khểnh: chắc bị nó lấy hết tiền bỏ đi rồi chớ gì. Anh muốn đấm vỡ mặt bà ta. Anh bỏ cả công việc để đi tìm chị. Đường gần, đường xa bặt vô âm tín.
Ba năm sau ngày chị bỏ đi. Anh tưởng chừng như đã bắt đầu một cuộc đời mới. Không có chị. Anh có một việc làm tốt, lương cao. Anh mua được một căn nhà nhỏ, sống một mình. Rồi tình cờ anh có tin của chị. Thằng em bà chủ quán cà phê năm xưa bây giờ lại vào làm việc cho công ty anh. Khi về quê xác nhận giấy tờ nó đã có tin về chị. Anh sống lại những ký ức năm nào, trọn vẹn đến từng cảm xúc nhỏ nhất, cứ như anh đang ngồi cho chị đơm lại cái cúc áo cho mình, cứ như anh đang đàn cho chị nghe bài “đêm đông”, mặc dù anh biết chị không thích bài này. Thì ra chị bị bệnh, một căn bệnh không thể chữa bằng cách nhai Quế khô và xức dầu nóng… Chị bỏ về quê để tránh cho anh hay. Trời ạ sao anh không nghĩ ra lúc đó nhỉ. Mà thật tình anh cũng không bao giờ hỏi chính xác quê chị ở đoạn nào, làm sao biết mà tìm. Còn một chuyện mà thằng em bà chủ cũng thú thật với anh là năm xưa chính nó đã ăn cắp tiền của bà chị. Nó rất ân hận khi thấy chị bị oan nhưng nỗi sợ hãi lớn hơn cả lương tâm nó, khiến nó không dám thú nhận.
Vậy là anh bỏ việc tìm về quê chị. Nhờ sự giúp đỡ của anh công an xã và vài người tốt bụng anh cũng tìm đến nơi chị ở, mái nhà của bà ngoại chị năm xưa. Bây giờ nơi này cũng thuộc quyền sỡ hữu của ông cậu đã làm nhục chị lúc mười bốn tuổi. Ông đã ly dị vợ về ở đây với chị.
Anh bán nhà, đem chị vào đây. Anh xây lại từng viên gạch cho giấc mơ năm xưa. Một mái nhà ngói ba gian, giàn thiên lý có bộ bàn uống trà nhìn ra biển lớn. Cái giếng sâu, nước trong có trồng đầy bầu, bí..vài chậu hoa huệ đất, hoa môn, một vạt mười giờ…
Trên đồi cao anh chị bên nhau, có nhau mãi mãi. Anh nói: Đó em thấy không có gì khó đâu, rồi mình cũng làm được hết. Anh sẽ sửa lại căn bếp cho thoáng để khói bay lên cao, anh trồng thêm vài cây dừa để tránh gió, chớ gió lớn kiểu này có ngày tốc mái quá. Chị cười. Vẫn nụ cười năm xưa.
Anh thường đi câu lúc nước lớn. Nhưng ở nhà anh vẫn để lửa cháy trên bếp để có thể từ xa nhìn về căn nhà của mình, có chị nơi đó. Đêm đêm, anh thường uống rượu, uống chút đỉnh để đàn hát cho chị nghe. Tiếng đàn hát nơi vắng vẻ này cũng làm yên lòng mấy vị khách đi xe đò dừng lại “xả hơi” dưới chân đồi. Nhiều đêm anh anh vừa đàn, vừa hát, vừa trò chuyện cùng chị. Anh nói: Em không bao giờ khổ nữa, anh hứa mà. Rồi anh anh cười. Anh cười vì thấy chị cười, anh cười mà hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt đen sạm, gân guốc. Chị nhìn anh trìu mến, mỉm cười. Vẫn là nụ cười buồn buồn và xa xăm. Nụ cười từ trong bức ảnh màu sau lớp kính dày trên tấm bia mộ trước sân. Chị nằm đó. Vĩnh viễn có anh. Vĩnh viễn không bao giờ đau khổ. Rồi anh lại hát. Hát ru chị ngủ. Hát mấy bài chị thích, mấy bài cả hai cùng thích và cả những bài anh thích nhưng chị không thích. Tiếng hát rên đồi vắng đầm ấm, vang xa theo ngọn gió tràn từ ngoài khơi…
Sài gòn, tháng chín hai ngàn lẻ ba. Đàm Hà Phú
Sói đến gần ngôi nhà nhỏ của bà và gõ vào cánh cửa. Cánh cửa này được một người thợ vô danh nào đó làm vào khoảng giữa thế kỷ 17. Người thợ đã làm nó từ gỗ sồi Canada rất mốt vào thời đó, tạo cho miếng gỗ một kiểu dáng cổ điển và treo nó lên những bản lề sắt. Có lẽ hồi xưa thì những bản lề này cũng tốt lắm đấy, nhưng bây giờ thì kêu cót két kinh khủng. Trên cánh cửa không hề có hoa văn nào cả, chỉ có ở góc phải phía dưới vẫn còn nhìn thấy một vết xước nhỏ. Theo truyền thuyết trong vùng thì đó là vết xước do cựa giày của Selesten de Shavard – tình nhân của Maria Antoanet và anh em họ hàng về phía ngoại của bà của ông của Khăn Đỏ. Ngoài điều đó ra thì đó là một cánh cửa hết sức bình thường, và vì thế chúng ta sẽ không cần thiết phải xem xét cánh cửa ấy kỹ lưỡng hơn.
2449
Chờ em từ bấy tới giờ
lại làm ra vẻ tình cờ qua đây
tình cờ gió thổi lá bay
hóa ra đã hẹn từ ngày chưa quen
2
Chao ... đêm đẹp biết chừng nào
vẫn xin em chớ làm sao giữa trời
sáng hoài mà chẳng có đôi
đẹp như trăng cũng lẻ loi khuyết tròn
3
Bảo rằng nói một lời đi
lại thôi ... nào đã có gì với nhau
nhùng nhằng những chuyện chi đâu
gần xa như bạn như bầu thế thôi
4
Ngả bàn tay nhớ bàn tay
hương thơm buổi ấy thoáng bay trở về
nói nhiều cũng chỉ mình nghe
nhớ nhau mình lại vuốt ve tay mình...
1501
Một họa sĩ rất nổi tiếng được mời đến khai trương phòng tranh của đồng nghiệp. Nhận ra cô người yêu bé nhỏ của mình trong bức tranh khỏa thân đặt ngay trung tâm gian phòng, chàng họa sĩ hết sức ngạc nhiên và tức giận. Anh ta tức tốc tìm cô nàng, hỏi gay gắt:
- Sao em dám làm mẫu khỏa thân cho thằng cha ấy? Em định sỉ nhục tôi đấy à?
- Không! không đời nào em lại ngồi làm mẫu cho anh ta. Chắc là anh ấy vẽ theo... trí nhớ đó mà!
2281
Nữ ca sĩ Cúc Phương và nhà kinh doanh Trần Vĩnh Phúc đi với nhau như một đôi đũa lệch. Vợ trông có da có thịt, cao hơn người thường. Chồng thì xương xẩu thấp lùn, cứ phải ngước mặt lên trời khi nhìn vợ. Không hiểu sao cô nàng da trắng mịn đến độ ai cũng muốn sờ vào một chút. Thật tương phản với cái vỏ vừa xám vừa khô của Trần Vĩnh Phúc. Cũng may, hắn biết phận mình. Ai có gặp Cúc Phương phải nhìn về đằng sau nàng hơn một thước mới tìm được bóng phu quân. Nếu thực sự nghĩ tới nhân vật không cần thiết này. Cô ca sĩ đi đâu cũng trưng ra một nụ cười thừa thãi. Nhà kinh doanh lầm lì như một góc trời u ám báo hiệu một cơn mưa.
Nói Cúc Phương đẹp thì quá đáng. Đồng ý, thân hình nàng làm như chỉ muốn dẫn con mắt đàn ông đến những chỗ da ở trần. Không để những con mắt này lân la ở những nét đều đặn của khuôn mặt hay vùng mượt mà của mái tóc dài. Phần của khoa học thẩm mỹ ở đây gồm có bộ ngực ngạo nghễ, cái mũi Tây phương và hai lúm đồng tiền trên má. Nhưng vẫn có gì thiếu thanh nhã, hơi thô ở nàng. Có lẽ là vẻ mặt ngơ ngác, không thể gọi là thông minh nhanh nhẹn. Hay điệu bộ vụng về, dáng đi không thướt tha. Cách trang điểm quá nặng, mùi nước hoa rẻ tiền và những kiểu quần áo cầu kỳ còn gây khó chịu. Dù sao đi nữa, cái đẹp nếu có cũng tan biến khi người ta thử nói chuyện với Cúc Phương. Có ai còn biết nói gì với nàng sau vài ba câu trao đổi? Khổ nhất là phải chịu đựng những chuỗi cười lớn của nàng. Tiếng cười bất ngờ, nhạt thếch, chẳng vui chút nào. ở người đàn bà này không có gì là tự nhiên. Mọi cử chỉ lời nói đều tìm kiếm sự chú ý của người chung quanh. Có cảm tưởng như lúc nào nàng cũng cần có khán giả chiêm ngưỡng mình. Nữ ca sĩ Cúc Phương có vài khía cạnh hấp dẫn thật. Nhưng ở nàng thiếu vắng một nét duyên.
Nhìn Trần Vĩnh Phúc thì làm sao có được cảm tình? Chỉ cần để ý đến đôi mắt hắn. Đôi mắt luôn luôn trốn tránh người đối diện, lấm lét nhìn trước nhìn sau như sợ điều ám hại. Khi hắn mở mồm ra nói chuyện, đôi mắt nhắm nghiền lại, đôi môi chu về phía trước, những câu nói vướng víu nhau, xiêu vẹo vì thiếu thẳng thắn. Khỏi tả những lúc, dưới viền râu lún phún, cặp môi mỏng dính và thâm xì méo mó một nụ cười nịnh bợ. Hắn ngồi đâu một lúc là bắt đầu rung đùi bần bật. Người ta rung đùi khi sung sướng, không ai như hắn, rung vô cớ từ một tâm trạng bất an thường trực. Trần Vĩnh Phúc còn có tật xỉa răng suốt ngày. Cái bàn tay che dấu góc miệng chỉ càng làm chú ý đến những lục lọi của que tăm. Thịt rau dính ở khe răng tất nhiên nằm trong tưởng tượng của hắn. Một nhà tâm lý học sẽ giải thích cái ám ảnh về vệ sinh ở đây bằng một mặc cảm đầu óc không trong sạch, có từ một tuổi thơ nhiều thiếu thốn. Đã vậy, hắn còn chọn mặc những áo vét xanh đỏ lòe loẹt, không làm quên được nước da đen đủi của hắn. Tất cả ở Trần Vĩnh Phúc như có gì giả dối và sợ sệt. Hiếm có trường hợp một hình tướng lại để lộ rõ như vậy cái thấp hèn của một con người.
+
Cúc Phương không thuộc vào những giọng ca nổi tiếng ở Mỹ hay Pháp. Nàng sẽ không bao giờ được chọn cho những băng vidéo bán chạy nhất, đang từ Paris và California tràn ngập về trong nước. Trần Vĩnh Phúc đã có lần lỗ vốn khi đưa vợ từ băng nhựa lên CD. Chỗ hành nghề của Cúc Phương chỉ có cái phòng trà Việt Nam nằm ở ngoại ô Paris. Những lúc nó không bị đóng cửa vì một trận ẩu đả hay một lần gian thuế. Ngoài ra, một năm được hai ba đại nhạc hội, một vài dạ vũ của các hội cựu học sinh hay đồng hương, và những đám cưới trước hè. Thỉnh thoảng lắm mới được một nhà hàng Tàu sang trọng. Thu nhập của ông chồng kinh doanh thất thường khiến Cúc Phương phải có thêm ở nhà nghề sửa quần áo, và nhận làm chả giò bánh cuốn suốt năm.
Vậy mà mỗi khi nữ ca sĩ Cúc Phương bước vào tiếng nhạc, nàng cứ tưởng cả vũ trụ đã nôn nao chờ nàng. Chính nàng làm những dòng nhạc bừng tỉnh dậy, hòa vào nhau, chen nhau chạy đến đón nàng. Không gian được mở rộng cho riêng một người. Cô nghệ sĩ buông trôi cho âm nhạc thấm dần vào mình. Nàng sẽ say hơi ấm của những ánh sáng đã lên màu, đến mân mê thân thể nàng, bám theo từng cử chỉ bước đi của nàng, như bao nhiêu cặp mắt ở đâu đó trong vùng bóng tối. Tiếng hát nàng xua đi những ưu phiền của cuộc sống, dẫn vào thế giới huyền ảo của cảm xúc. ở đó, tình yêu đã giành lại ngôn ngữ, đưa lòng người về những xao xuyến, vì một ánh nắng, vì một giọt mưa. Không còn người đàn bà tầm thường của hàng ngày, Cúc Phương đã hóa thân thành nhạc thành thơ. Những lời nàng hát là những bông hoa tản mác trong đêm, bay bổng về một góc nhớ của người nghe. Cúc Phương thấy mình đẹp tuyệt vời ở nơi gặp gỡ của thơ và nhạc.
Những lúc đó Cúc Phương quên đi số phận hẩm hiu của giọng ca nàng. Nàng không nhớ người ta chỉ cần nàng đóng góp cho một không khí văn nghệ, giúp vào một buổi khiêu vũ. Cô ca sĩ cứ việc hát, những món thịt cá tiếp tục lan tràn các bàn tiệc, rượu ngon vẫn làm mọi người cười nói oang oang. Những cái nhìn âm thầm quan sát không ngừng lâu ở người ca sĩ, mau chóng trở về so sánh sự giàu sang hạnh phúc của những kẻ cùng giới. Khi bụng no, người ta ra sàn nhảy, muốn tiếng hát đừng át tiếng trống giữ nhịp cho điệu nhảy. ở một vài nơi còn có các bà các ông nóng lòng chờ cô ca sĩ hát cho xong để đến phiên mình trình diễn. Con cái của họ đã lớn, họ cần làm văn nghệ để lấp các khoảng trống, và cần cái nhìn của thiên hạ để hiện hữu. Những người như họ yêu văn nghệ là chuyện dĩ nhiên, vì trong đời sống đầy đủ của họ tình cảm cũng phải có thừa. Đừng lầm họ với những kẻ xướng ca vô loài, hát vì đồng tiền bát gạo.
+
ở những nơi Cúc Phương trình diễn, Trần Vĩnh Phúc lẽo đẽo theo vợ như một bóng mờ. Sự hiện diện của hắn không cản nổi những chàng hào hoa phong nhã đến quàng vai tán tỉnh cô nghệ sĩ lẳng lơ. Trần Vĩnh Phúc lo mọi chuyện hợp đồng giá cả cho vợ, nhưng nhất định không nhận mình là ông bàu. Hắn tự giới thiệu là một nhà kinh doanh. Có hùn vốn vào một vài công ty thương mại hoạt động trong cộng đồng Việt Nam ở Pháp, và gần đây ở cả trong nước. Hắn mà kinh doanh cái quái gì! Khá lắm là lâu lâu làm môi giới trong những chuyện buôn đi bán lại lặt vặt. Nếu không, tại sao cô vợ còn phải trát phấn trát son đi hát đêm, và hắn còn phải ngồi chờ vợ hàng giờ, mặt thiểu não trong một góc tối phòng trà?
Không ai biết rõ quá khứ của gã Phúc này. Những lúc bắt buộc phải nói gì đó về hắn, người ta lại mang ra những câu chuyện đồn đại. Sự nghiệp kinh doanh của hắn nghe đâu bắt đầu vào đúng những ngày bộ đội bước vào Sàigòn. Hắn đã nhanh trí tụ tập được nhân công để may gấp những lá cờ Mặt Trận Giải Phóng đủ cỡ, bán khắp thành phố. Khi có người bắt chước làm theo thì hắn đã chuyển qua cờ đỏ sao vàng, còn nhận làm thêm biểu ngữ, bích chương, vòng hoa chiến thắng... Thu nhập của hắn tăng vùn vụt theo số lượng các buổi mít tinh, diễn hành, liên hoan của chế độ mới. Khi giai đoạn ăn mừng giải phóng đi qua, hắn biến mất một thời gian, rồi xuất hiện lại ở một xóm lao động khác, xa nơi cũ. Người ta kể ở đó hắn thân thiện với nhóm công an của phường. Một con người như hắn đâu có chế độ chính trị nào tin được, cho dù hắn khoe khoang "thành tích" đào ngũ quân đội cộng hòa. Nhưng thời đó cần nhiều lớp trung gian giữa chính quyền mới và nhân dân thành phố. Hắn lại sẵn sàng làm những chuyện đòi hỏi phải cất đi nhân cách. Người ta nghe nói, khi trong phường có cậu Việt kiều yêu nước về thăm gia đình, hắn đã đến ngồi cả ngày ở phòng khách gia đình cậu ta, cho tới khi nhận được tờ giấy 10 đô, vài hộp thuốc Tây và bao thuốc lá ngoại. Trần Vĩnh Phúc lấy được Cúc Phương là nhờ chút quyền hành cách mạng được chia. Đừng ai trách cô thiếu nữ mới vào sống ở thành phố đang cần hộ khẩu. Phải hiểu thêm cho, cô ta lúc đó vừa bị chồng bỏ, đến thằng con trai cũng từ chối theo mẹ. Đầu óc làm ăn của gã Phúc có lẽ hợp với nền kinh tế chưa có thị trường (xã hội chủ nghĩa). Những năm thiếu thốn mọi thứ, gã Phúc lúc nào cũng có đồ để bán cho các cán bộ từ Bắc vào, từ thuốc lá Ba Số giả vào ngã Trung quốc thay vì Thái Lan, đến đủ loại văn hóa phẩm đồi trụy lính Mỹ để lại. Rồi hắn đứng ra tổ chức những chuyến tàu vượt biên, khi thành công khi đổ bể. Trong trường hợp những cây vàng của thiên hạ biến mất trước khi tàu đóng xong, hắn lại chỉ rõ thủ phạm, chứng minh được mình chỉ là trung gian, cũng bị lừa như mọi người. Người ta đoán phần lớn vốn liếng của gã Phúc có từ thời hoạt động cho thiên hạ tìm tự do.
Rồi một ngày hai vợ chồng lên tàu đến trại tỵ nạn ở Pulau Bidong. Không đầy một năm sau, họ được chọn vào Pháp. Chẳng hiểu bằng cách nào Trần Vĩnh Phúc có giấy chứng nhận là cựu nhân viên hãng dược phẩm Roussel của Pháp ở Sàigòn. Cho dù người ta nghi ngờ đến cả tờ giấy khai sinh của hắn. ở Paris, quả thật gã Phúc có hùn vốn vào hai ba tiệm phở Việt Nam, thường đóng cửa khi hết những năm miễn thuế. Hắn có làm chung với người Hoa một vài nơi may quần áo lậu. Gần đây, hắn đứng làm môi giới cho các gia đình ở Pháp muốn tìm con nuôi ở Việt Nam. Hắn đi đi về về, mỗi lần lại có nhiều thêm tên tuổi những nhân vật quan trọng hắn coi là thân, trong chính quyền và ở các cô nhi viện. Cộng sản, Phật giáo, Công giáo hay Cao Đài đều là chỗ quen biết. Hắn lôi ra một lần nữa cái luận điệu thời tổ chức đi chui, nói mình chỉ muốn làm việc thiện, đâu có kiếm chác được gì trong đó. Chẳng ai tin ở lòng nhân ái của gã Phúc. Người ta chỉ cần cái kinh nghiệm luồn cúi của hắn.
Trần Vĩnh Phúc không chịu sống với những người cùng hoàn cảnh và trình độ với mình. Hắn còn tuyên bố rằng giới nghệ sĩ chung quanh vợ hắn là những kẻ đáng nghi ngờ. Nếu nghe hắn thì chỉ có những người nhiều quyền lực hay tiền tài mới đáng tin cậy. Gã Phúc tìm mọi cách len lỏi vào môi trường người Việt thượng lưu ở Paris. ở đó người ta khinh rẻ hắn, cũng vì vậy mà nghĩ hắn không đủ khả năng lừa bịp, làm hại được ai. Người ta chấp nhận quan hệ với hắn chỉ để làm nổi bật lòng rộng lượng và giá trị của mình. Có thể hắn cũng biết điều đó. Nhưng hình như cách kiếm sống của Trần Vĩnh Phúc chính là để người khác bước đạp lên mình.
+
Thiên hạ thường nghĩ đời một cô ca sĩ chắc phải sóng gió, với những mối tình cho và nhận bừa bãi ở những chốn ăn chơi hời hợt. Trong trường hợp Cúc Phương, sự trung thủy với một kẻ kém cỏi như gã Phúc càng không thể tưởng tượng được. Lạ thay, mặc dù tất cả ở Cúc Phương như một lời mời mọc, nàng lại từ chối những chàng nghệ sĩ tình cảm lai láng và những tay chơi tiền tài dư thừa. Không ai nghĩ gã Phúc đủ sức làm cho người vợ sợ mình. Kẻ xấu mồm nghi là hắn giữ cô nàng bằng bùa ngải. Nhiều người đồng ý với một giải thích sâu sắc hơn. Cúc Phương chỉ có bề ngoài, nàng sợ đàn ông thất vọng khi nhìn thấy con người thật của nàng. Nàng thỏa mãn với một ông chồng chẳng có gì cho phép hắn đòi hỏi ở người khác.
Chuyện nàng dăng díu với ông dược sĩ Nghĩa không xảy ra ở thế giới vui đêm. Nó bắt nguồn từ cái bệnh máu khiến Cúc Phương phải mua thuốc chữa trị tháng này qua tháng khác. Không có bệnh máu này thì ông dược sĩ và cô ca sĩ chẳng thể nào gặp nhau. Tiệm dược phẩm của ông Nghĩa ở gần nhà nàng, ông còn là người đồng hương. Ông Nghĩa chỉ có một mình, ở xa nơi gia đình cư ngụ và chỗ vợ làm việc. Buổi sáng tiệm thuốc vắng khách, Cúc Phương rảnh rang, hai người có thể ngồi nói chuyện cả giờ. Nàng thấy mọi thứ ở đây đều có vẻ trong lành, làm yên tâm. Từ tiệm thuốc sạch bóng, đến cái blouse trắng và đôi kính cận thị của ông chủ tiệm.
Ông Nghĩa không có cái nhìn cởi quần áo và những câu nói thô tục của loại đàn ông Cúc Phương thường gặp. Ngược lại, ông nói chuyện đứng đắn lịch sự, văn vẻ trí thức. Nghe ông kể về những chuyến du lịch ở các nước xa xôi lạ lùng, Cúc Phương thấy ông hiểu biết rộng và có cuộc sống phong phú. Đời của ông ổn định làm sao, với bà vợ làm kỹ sư và hai đứa con vừa học giỏi vừa ngoan. Cô nghệ sĩ không bị lòe mắt bởi cái xe Mercedes mới toanh của ông, hay các loại giải trí đắt tiền của gia đình ông. Nàng biết của cải và may mắn trên đời không thể chia đều cho mọi người. Nhưng nàng không ngờ một người thành công như ông Nghĩa lại giản dị, dễ thân như vậy. Phải nói Cúc Phương chỉ thực sự bị lôi cuốn từ khi, quen nàng hơn, ông Nghĩa bắt đầu tâm sự về cuộc đời của ông. Cô khách không cùng môi trường sống, không cùng giới, ông không có gì phải thận trọng giấu giếm.
Hóa ra ông Nghĩa không có hạnh phúc! Từ hồi trẻ đến bây giờ, đã gần 50 tuổi, mọi chuyện trong đời ông đều được vạch sẵn, tổ chức chặt chẽ, không có chỗ cho tình cờ và may rủi. Thời chiến tranh ông đi du học, gia đình đủ phương tiện để ông chọn đường học vấn dài, ra trường ông lấy vợ liền, con nhà danh giá và có nghề nghiệp vững chắc, bố mẹ ông và gia đình vợ ngay lúc đó hùn vốn mua tiệm thuốc, thiếu bao nhiêu thì nhà băng vui vẻ cho mượn tiền, vợ chồng lập kế hoạch có 2 con, cách nhau 2 tuổi, và 2 nhà, 1 biệt thự ở ngoại ô cho mình và 1 căn hộ trong Paris cho thuê. Những gì gặt hái được là những kết quả không thể khác.
Nhưng ông Nghĩa thiếu những thất bại để hưởng sự thành công của mình. Mặt khác, sự nghiệp của cả hai vợ chồng đã ổn định, con cái đã vào đại học, tiền của đã đủ chỗ đầu tư, nhà cửa không thể làm đẹp hơn, tiêu thụ đã cạn nhu cầu, giải trí phải bớt đi vì tuổi tác... Ông thương vợ con không thua gì ai. Nhưng tình thương này cũng thành thói quen, con mắt không còn nhìn thấy. Như bức tranh đắt tiền rơi vào quên lãng khi treo quá lâu. Cuộc sống mất dần mùi vị và ý nghĩa. Ông dược sĩ chán đời giữa cảnh gia đình đầm ấm và sự giàu sang. Vẫn biết thiếu gì người thèm thuồng địa vị của ông. Nhưng họ không hiểu, chẳng có niềm hạnh phúc nào mọc lên được từ đất khô cằn của một đời người quá phẳng lặng.
Ông Nghĩa càng than vãn, cô ca sĩ càng muốn gần gủi ông hơn. Tất nhiên Cúc Phương không thể hiểu và thông cảm một hoàn cảnh xa lạ với nàng như vậy. Nhưng nàng nhìn thấy ở người này một cái gì tương tự như một tâm trạng nàng có. Phải chăng mọi nỗi bất hạnh, dù khác nhau đến đâu đi nữa, đều muốn xích lại gần nhau? Vì cái thiếu hạnh phúc của kẻ khác làm nguôi đi cái khổ của chính mình. Thêm vào đó, chưa bao giờ có ai cần tình thương của Cúc Phương như vậy, kể cả chồng nàng. Cúc Phương không ngờ cá nhân mình cũng có thể cần thiết cho một người khác. Cho tới nay nàng chỉ biết ngồi chờ nhận, bây giờ nàng mới có dịp để cho. Khi an ủi ông dược sĩ, nàng thấy lòng mình trong sáng, cao thượng lên. Mỗi lần đến tiệm thuốc, người đàn bà tưởng như đẩy lùi được những hạn chế của mình, thoát ra ngoài một thân phận thấp kém.
Ông dược sĩ và cô khách thân cùng nhau vào sâu những tình cảm tâm tư thầm kín của mỗi người. Lần này qua lần khác, họ cởi bỏ từng lớp cái bí mật che chở cá nhân. Cứ như vậy họ bị thu hút về chỗ trần truồng nhất của con người là thể xác. Bắt đầu là những thoáng đụng chạm, như tình cờ vô ý, đi theo những lời trìu mến. Sau đó, hai người càng chối nhận sự dao động của mình, hai thể xác càng tưởng được phép giục gọi nhau. Cuối cùng, cuộc gặp gỡ xác thịt trở thành cần thiết để họ gần nhau hơn. Họ làm tình vội vàng vào những giờ nghỉ trưa, nơi căn phòng nhỏ phía trong tiệm thuốc, đến cả cái giường cũng thiếu. Có khi họ cuồng loạn như say khướt tội lỗi. Có khi họ vụng trộm như trốn tránh chính mình.
Phúc sẽ không bao giờ biết được chuyện của vợ chàng với ông Nghĩa. Tiệm dược phẩm chỉ cách nhà có hai ngã tư nhưng ở rất xa thế giới của Phúc. Hai người đàn ông có gặp nhau vài lần trong khu phố. Nhưng người Việt ở đây chẳng mấy khi chào nhau ngoài đường khi không quen biết. Suốt thời gian tới lui tiệm thuốc, thái độ của Cúc Phương và cả tình cảm của nàng đối với chồng không thay đổi nhiều. Không phải vì nàng giả dối với Phúc hay với chính mình. Nàng gặp ông dược sĩ ở ngoài cái thực tế của nàng. Những giờ nghỉ trưa của tiệm thuốc là những khoảng thời gian nằm trong dấu ngoặc, tách rời khỏi cuộc sống thật. Như những giấc mơ vừa xa vừa ngắn, chúng không để lại những dấu vết lâu dài. Ông Nghĩa không có mặt trong địa phận Cúc Phương chung với chồng. Ông đứng ngoài với một phần riêng tư của nàng, cái phần dù sao cũng không có chỗ trong đời sống vợ chồng nàng.
Với thời gian, ông Nghĩa nhận ra sự sa ngã của mình. Ham muốn và thỏa mãn quá ngắn ngủi so với những dằn vặt sau đó. Ông còn thấy chẳng đổi trác được gì với cô nhân tình. Vì chỉ có ông mới có thứ để cho, để mất. Cô ta không như ông, đâu có một hiện tại và một tương lai đáng được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Những giá trị của ông ngày càng lung lay, do lỗi cô nghệ sĩ đùa nghịch với đạo đức người khác. Cúc Phương phải thấy rõ hạnh phúc của gia đình ông. Ông tỏ ra chăm lo gia đình hơn trước, ông điện thoại cho vợ con trước mặt cô nhân tình, ông dẫn nàng đi mua quà cho họ... Ông Nghĩa đi từ mặc cảm tội lỗi qua cái sợ. Ông cầu cứu Trời Phật, tổ tiên, thày bói, đồng cô đồng cậu. Ma quỷ hãy tha cho ông. Để ông trở về với cuộc sống trước đây, một cuộc sống ít nhất còn được yên ổn. Cúc Phương lúc đó mới biết, giữa nàng và người đàn ông này chỉ có sự hiểu lầm hai chiều.
+
Trong căn hộ nhỏ, người đàn bà tội lỗi ngồi chờ chồng về. Căn hộ giống cả trăm căn hộ khác trong dãy nhà chung cư nằm dài theo đường xe lửa, ở một ngoại ô xa Paris. Buổi chiều ở đây có một bộ mặt thẫn thờ. Khu phố loay hoay với những sinh hoạt vô nghĩa. Thời gian như lết từng bước khật khưỡng nặng nề. Người đàn bà nhìn ra cửa sổ chỉ thấy những bức tường. Những bức tường bằng xi măng, bằng gạch, bằng đá thô, bằng gỗ, bằng tôn, bằng kính mờ, bằng vải cũ... Màu sắc khi tẻ nhạt, khi đục bẩn, khi sặc sỡ vô duyên. Những bức tường giam hãm các căn nhà và mẩu sân, chia cắt không gian, che dấu ánh sáng, chặn đứng tầm nhìn, áp đặt những giới hạn. Có cả những bức tường nằm ngang dọc trong đầu người đàn bà.
Sáng hôm nay, Cúc Phương đến tiệm thuốc lần cuối cùng. Nàng đã chuẩn bị từng lời nói để cuộc chia ly giữ đủ tư cách cho hai người. Chắc ông dược sĩ cũng đã sẵn sàng phần ông. Liên hệ của họ đã loãng nhạt đi nhiều, nhưng còn phải chấm dứt làm sao cho đàng hoàng. Vậy mà họ vẫn làm hỏng cái cảnh chót của một chuyện tình nhàu nát. Hai người tình nhân hụt hẫng, tình cảm đã cạn khô quá mức họ tưởng tượng. Những lời nói khi thốt ra mới lộ hết sự què quặt của chúng. Cố gắng của mỗi người chỉ làm tăng một sự giả dối không còn cần thiết. Cuối cùng, còn lại những cái nhìn xin lỗi nhau, thảm thương. Tình yêu này là một chuyện vô lý. Một sai lầm. Nó không xứng đáng có một kết cuộc tử tế.
Người đàn bà giờ đây đứng ngẩn ngơ bên cửa sổ, mắt ướt nhòa. Nước mắt không gửi về người nhân tình đã thành xa lạ. Cũng không tiếc nuối cái thời gian có ảo ảnh của một hạnh phúc. Cúc Phương khóc cho thân phận mình. Nàng đã bị chặn lại khi định ra khỏi thế giới nghèo nàn của mình. Nàng đã bị xô đẩy trở về cái góc đời đặt sẵn cho mỗi cá nhân. Cô nghệ sĩ đã nhìn lại mình chưa mà đem lòng tội nghiệp người khác? Sự rộng lượng chỉ nên có ở những kẻ nhiều may mắn. Cúc Phương vươn lên cũng vô ích, không ai cần những tình cảm cao thượng đến từ hạng người như nàng. Những ý nghĩ như thế cứ quanh quẩn trong đầu, để nước mắt từng giọt rớt xuống những ảo tưởng bị dập vùi.
Cúc Phương chợt nhớ, mỗi lần nàng đau khổ vì một thất bại hay một mất mát nào đó, lại có Phúc ở gần. Người chồng lúc nào cũng có mặt, như bao nhiêu lần chờ đợi nàng ở cuối những đêm khuya. Phúc là nơi trở về của nàng. Là thực tế của nàng sau những ước mơ vỡ vụn. Người đàn ông này không bao giờ biết nói những câu yêu đương, làm sao tìm được một lời dỗ dành an ủi. Nhưng tất cả ở trong sự hiện diện và đôi mắt của chàng. Phúc hiện diện như một nhân chứng, để Cúc Phương không còn một mình với những ác nghiệt và bất công nàng phải nhận. Đôi mắt Phúc sẽ ở với nàng thật lâu, cho đến khi tiếp thu được hết nỗi bất hạnh từ nàng. Chỉ như vậy thôi, cặp vợ chồng đã chung nhau từng ngày mưa ngày nắng, từng niềm vui nỗi buồn, từng đoạn đường của một hành trình dài. Họ chia sẻ với nhau những hy vọng từ khi chớm nở, những tủi nhục cho đến khi quên. Họ gom góp lại cả sự cô đơn của mỗi người. Hai số phận không thể xa cách. Cúc Phương đã mang trong người sự hiện hữu của Phúc, và đã gửi chồng cả một phần của nàng.
Bàn tay chưa lau xong nước mắt Cúc Phương đã mỉm cười. Nàng nghĩ tới những đêm vợ chồng trở chứng mò tới nhau trong chăn mền. Lần nào, sau khi tắt đèn đầu giường, họ cũng đợi một lúc cho tắt hẳn âm vang của những ngày đang đi qua. Tắt đi phần nhìn thấy của cuộc sống. Ngón tay cái của Phúc sau đó bấm nhẹ vào một nơi nào đó trên người Cúc Phương. Hay nàng khều gọi chồng mình ở đầu những ngón chân. Người đàn bà ngồi dậy, đưa lưng cho chồng. Chàng cẩn thận vén mái tóc dầy qua hẳn phía bên kia bờ vai. Mở thật chậm từng khuy áo, kéo dài thời gian đón nhận những hương vị đầu tiên của nàng. Từ đó người đàn ông đi theo vết hằn của sườn lưng, bắt đầu cuộc phiêu du vào hiện thực người đàn bà. Các mảnh vải nhường chỗ dần cho da thịt cọ xát vào nhau. Những ngón tay ân cần và đầu lưỡi ướt mềm của ai lang thang khắp thân thể Cúc Phương. Đi từ những đầu ngọn, đến các góc khe, vào tận chốn cội nguồn của khoái cảm. Đi tới đâu lại khơi dậy những ngọn sóng tỏa về muôn hướng. Không biết từ lúc nào bóng tối đã thành màu sắc. Trong bóng tối đó hai người nhận diện được nhau trọn vẹn. Chỉ còn sự thật của thể xác, những hơi thở, và cuộc trao đổi cảm xúc. Khi Cúc Phương đón nhận người đàn ông vào mình, sự hiện diện của chàng đột nhiên đầy ắp không gian, và từ các vùng da thịt thoát lên những âm thanh nguyên thủy. Tất cả ở nàng từ đó muốn bám chặt vào sự hiện diện này, theo về những đỉnh cao. ở sâu trong Cúc Phương, các con sóng càng lúc càng đổ nhanh về nơi hội tụ. Rồi tình yêu nở rộ bất ngờ.
Chỉ có Phúc mới biết lắng nghe, bắt gặp những dao động nhỏ nhất trong Cúc Phương. Vì tất cả xúc cảm của chàng tùy thuộc vào những gì trổ ra từ đó. Bây giờ Cúc Phương mới hiểu. Trong ân ái Phúc không giành một thân thể cho riêng mình. Chàng muốn mỗi chi tiết của thân thể này là một mẩu đất vun trồng sự hòa nhập của hai người. Chàng gửi vào đó một tình cảm ít khi Cúc Phương nhận được ở đời. Một tình cảm quý hơn sự ham muốn, là sự tôn trọng một con người. Tôn trọng toàn vẹn một con người.
Trong căn hộ nhỏ, người đàn bà biết chồng sắp về. Chiều ngả mình vào lòng tối khiến chân trời ửng đỏ một nỗi xôn xao. Những vết nắng cuối cùng long lanh một ánh sáng thần diệu. Bóng tối như mái tóc thiếu nữ loang dần xuống làn da của một ngày. Những người lao động trở về làm khu phố rối rít cả lên. Từ dưới nhà vọng lên tiếng trẻ thơ đùa nghịch, tiếng gia đình tìm gọi nhau, và muôn vàn tiếng động của cuộc sống. Có ai ngờ âm nhạc đã tràn đầy không gian, làm có người ngây ngất một niềm vui rạo rực.1460
Trong giờ toán, cô giáo vẽ hai nửa hình tròn lên bảng bỗng một cậu học sinh kêu to: "Ô cái mông"
Cô giáo rất giận và mời thầy hiệu trưởng đến để kỷ luật học sinh này vì tội nói bậy trong lớp. Thầy vừa bước vào nhìn ngay lên bảng và nói với cậu bé: "Em sẽ bị kỷ luật nặng đấy. Tại sao em lại dám vẽ cái mông lên bảng như thế này?"1129
tình yêu nầy ta còn đi vay mướn, bởi cô-đơn, ta tìm mua hạnh-phúc
2727ta vẫn thèm khát-khao lời em nói,
nhưng ngày lặng im, không một tiếng chào!
em vồn-vã hỏi thăm người gian dối,
mà quên ta như kẻ lạ sơ-giao!
ta không biết vàng thau giờ lẫn-lộn,
em phấn-son còn chăn gối cho chồng?
dung-nhan đó bao nhiêu người đưa đón,
hạnh-phúc nầy em bán lại ta không?
nên bao giờ cũng phải chịu lỗ thua,
trả không biết bao nhiêu lời và vốn,
chung bây giờ đã khác thủy khi xưa!
tưởng giếng sâu, ta nối sợi dây dài.
đời nhiễu-nhương nên chân-tình quá mắc,
đời dối-gian ta còn biết tin ai?
Trong trang trại có 10 con gà mái, một con gà trống già và "tân binh" gà trống tơ. Đây là lần thứ 4 ông chủ mua về một con trống tơ để thay thế lão trống già. Gà cũ gạ gẫm cậu lính mới chia đôi số gà mái, nhưng chú ta từ chối phắt. Thế là hắn lại phải diễn vở kịch quen thuộc:
- Chú trông thế mà chưa chắc đã khoẻ hơn tôi đâu! Hay ta chạy thi?
- OK, được ăn cả, ngã về... hưu.
- Chú chấp tôi nửa vòng sân chứ?
- Chơi luôn, bắt đầu đi! Vừa là đạo diễn, vừa đóng vai chính, gà già vừa chạy trước vừa hét ầm ĩ. Nghe thấy tiếng ồn, ông chủ liền ra xem và lại nhìn thấy cảnh cũ: Gà trống mới mua đang đuổi theo đòi "đạp" gà trống cũ. Sau một phát súng, ông chủ xách kẻ "ngựa non háu đá" vào bếp, vừa đi vừa lầm bầm:
- Chợ dạo này toàn bán... gà pêđê!
2226