Hai ông hàng xóm nói chuyện với nhau:


- Sinh nhật ông là ngày nào?

- Ông hỏi để làm gì?

- Để tôi mua tặng ông cái rèm cửa sổ, chiều nào đi làm về, tôi cũng thấy vợ chồng ông không quần áo rượt đuổi nhau khắp nhà.

- Thế sinh nhật ông là ngày nào?

- Ông hỏi vậy là sao?

- Để tôi mua cho ông cái ống nhòm, để ông coi rõ đó là vợ tôi hay vợ ông.
1474




Cô giáo lớp 1 dạy học sinh:
- Chúng ta cần phải phát động phong trào làm việc tốt. Từ mai trở đi, khi đến lớp mỗi em phải kể cho cô nghe một việc tốt nhé!
- Thưa cô vâng ạ! Ngày hôm sau:
- Em nào có việc tốt kể cho cô nghe.
- Dạ thưa cô
- một em đứng lên
- Hôm nay em dẫn một bà già qua đường ạ!
- Tốt, tất cả lớp phát huy học tập theo bạn nhé! Ngày hôm sau:
- Nào, thế hôm nay những ai đã làm việc tốt?
- Dạ thưa cô, hôm nay chúng em học tập bạn hôm qua và đều đã làm việc tốt ạ!
- cả lớp đứng lên đồng thanh nói.
- Vậy là rất tốt. Các em đã làm những việc gì nào?
- Chúng em cùng dẫn một bà già qua đường ạ.
- Tốt lắm! Nhưng tại sao có một bà già mà cả lớp cùng dẫn qua đường hả?
- Dạ thưa cô, vì bà ấy... không thích qua đường ạ.
2384





Ông giám đốc nọ quát cô thư ký của mình:
- Bụi trên mặt bàn của tôi đâu rồi?
- Thưa, em mới lau sạch bàn của sếp đấy ạ.
- Lúc không cần thì lại lau! Tôi mới viết trên đó hai số điện thoại rất quan trọng...


Khách mua nói với chủ chiếc xe Cadillac:
- Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy bà định giá chiếc xe có 50 USD, trong khi có thể bán nó đắt hơn nhiều...
- Tôi biết! Trước kia, chồng tôi đã phải trả 35.000 USD để mua nó.
- Tại sao bà lại bán nó theo kiểu cho không như vậy?
- Vì chồng tôi để lại di chúc là cho cô thư ký số tiền bán chiếc xe này.


Giám đốc hỏi thư ký:
- Bút của tôi đâu rồi?
- Trên tai ngài đấy thôi!
- Không thấy tôi đang bận à? Cô có thể nói chính xác là nó ở bên tai nào được không?
1770




Ba người đàn ông tranh luận thế nào là biết ứng xử. Một người cho rằng, có thể đánh giá bằng cách tưởng tượng ra khi ông ta về đến nhà, bắt gặp vợ đang hôn một người đàn ông khác, thì ông ta sẽ lập tức cất mũ chào người đàn ông kia, và nói:

Xin lỗi.

Chưa đủ

Người đàn ông thứ hai nói

Phải cất mũ và nói: Xin lỗi. Mời tiếp tục; mới là biết ứng xử.

Tôi chưa đồng ý với cả hai ông

Người thứ ba nói

Nếu ta ngả mũ và nói: Xin lỗi, mời tiếp tục, mà người lạ kia cứ tiếp tục thì hắn mới đúng là người biết ứng xử.

2752




Một anh chàng đẹp trai, lịch lãm, trông rõ không phải người địa phương, đi trên xe buýt và ngồi cạnh một cô. Thỉnh thoảng anh ta lại sờ vào vai cô nàng rồi đưa lên mũi ngửi, vẻ mặt rất "phê". Cô nàng lấy làm thích thú, hỏi:
- Anh từ đâu tới?
- Từ sao Hỏa.
- Tuyệt vời! Em rất thích người ngoài hành tinh. Thế anh có thích em không?
- Có. Hai người đưa nhau về khách sạn, thuê phòng.
- Anh yêu em đi
- cô gái giục.
- Thì trên xe buýt anh đã "yêu" em suốt đấy thôi
- "Người sao Hỏa" trả lời và lại tiếp tục... sờ vai, đưa lên mũi ngửi.
2227




Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.

Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.

Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng.

Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.

Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:

- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?

Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.

Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:

- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.

- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?

- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi.

Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:

- Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.

- Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này.

Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.


Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng.

Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.

Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.

Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.

Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.

Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: “Gì thế, hở em yêu?” như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh?

“Nàng đã ngụ ở phòng này”, anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến?

Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì.

Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: “Vâng, em yêu!”, và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.

Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.

Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:

- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?

- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.

- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?

- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.

- Và trước họ, ai đã ở đấy?

- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.

Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.

Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.

*

Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:

- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.

Bà McCool nói với lòng thán phục:

- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.

Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:

- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?

Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:

- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.

- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.

- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.

- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.

Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:

- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi, bà McCool.
234




Anh nọ nợ anh kia đã lâu rồi mà không trả. Mỗi lần anh kia đòi thì cứ kêu túng, xin khất. Một hôm, anh kia lại đến đòi, thấy anh nọ đang ngồi ăn cơm, trên mâm có cả con vịt quay còn nóng hổi, mới hỏi:


- Hôm nay ăn sang thế, chắc anh có tiền trả tôi rồi nhỉ?


Anh nọ đáp:


- Chà! Thật tôi túng quá. Hôm nay cũng chưa trả anh được.


Anh kia trợn mắt, nói:


- Thôi đi! Cứ hẹn mãi! Anh có tiền mà không muốn trả, chứ túng thiếu nỗi gì?


Anh nọ nói:


- Túng thật mà! Không dám nói dối anh đâu!


Anh kia nói:


- Hừ! Ăn nguyên cả con vịt quay mà còn kêu túng?


Anh nọ nói:


- Thì túng đến nỗi một con vịt cũng không nuôi nổi, phải làm thịt, chứ còn túng đến như thế nào nữa!

2590




Đoạn Kết Một Mối Tình


     Người ta đồn “Tuyết yêu tôi”. Họ còn khẳng định chính miệng em nói ra điều ấy. Ngay cả chính tôi, tôi cũng không biết rõ được là Tuyết có yêu tôi hay không. Có lần mấy người đã nhìn thấy tôi ôm bờ vai nhỏ nhắn gầy guộc của Tuyết để vỗ về sau lần em bị gã chồng vũ phu tìm vào tận đây để hành hung.

      Buổi chiều đầu tiên, khi Tuyết đến đây dắt theo đứa con trai nhỏ, đôi mắt buồn bã ngơ ngác, đã làm cho em nhanh chóng nhận được sự thương cảm của mọi người. Hai ngày sau, xóm tôi bị náo loạn bởi gã đàn ông thô lỗ và tục tằn. Hắn đến, chửi toáng ngay từ đầu ngõ, bằng nhiều thứ ngôn ngữ mà ở đây rất ít được nghe. Chửi thỏa thích, hắn xông vào đánh Tuyết. Lúc hàng xóm gỡ được hắn ra khỏi người Tuyết, hắn vẫn cố cắn vào vành tai của Tuyết như con chó dại và nhổ đánh toẹt xuống nền nhà một bãi máu tươi, kèm theo câu nguyền rủa:

      - Mày mà bỏ tao chỉ có nước làm đĩ mà sống, nhưng bỏ tao không dễ đâu.

      Lúc tôi về, chồng Tuyết đã đi, mang theo tất cả áo quần của hai mẹ con. Câu chuyện ấy qua miệng mấy bà hàng xóm làm tôi nổi gai ốc cùng mình. Tôi tiếc không có ở nhà để bảo vệ em. Ngoài tôi ra em còn biết trông cậy vào ai nơi đất khách quê người.

      * * *

      Khi chia tay Tuyết, rời quê hương để tìm kế sinh nhai, tôi được chị Lệ, chị của Tuyết giúp đỡ tận tình, từ công việc làm ăn đến nơi ăn chốn ở. Ngoài tôi ra, chị Lệ còn cưu mang một gã họa sĩ lang thang thất nghiệp. Không biết chị lôi anh ta từ đâu về với đống đồ nghề lỉnh kỉnh. Căn hộ của họ trở thành xưởng vẽ bề bộn với nhiều bức tranh lộn xộn những ngựa, những người không ra hình thù gì cả. Vậy mà chị Lệ cứ tấm tắc khen đẹp. Tôi không quan tâm lắm đến quan hệ của họ. Nhưng theo lời của những người đàn bà trong xóm thì hình như chị quen gã từ hồi gã còn là sinh viên. Bây giờ họ sống với nhau theo kiểu “già nhân ngãi non vợ chồng”. Gã họa sĩ thường ít ra khỏi nhà. Sau giờ làm việc của chị Lệ, họ thường đóng chặt cửa lại, sống tự nhiên chẳng màng sự dị nghị của mọi người. Tôi nghe mấy bà hàng xóm xì xào:

      - Gớm! Con Lệ ở truồng dồng dỗng trên giường cho thằng ấy vẽ, rõ là cái đồ dở hơi! Đàn bà như thế mà không biết xấu hổ, đi ra ngoài cái mặt cứ câng câng, thấy mà ghét!

      Mặc ai muốn gì thì nói, tôi vẫn cứ phục cách sống của hai người. Họ “sống ra sống” chứ cứ như tôi cái gì cũng sợ thì suốt đời chỉ là thằng công chức quèn. “Yêu không dám nói, ghét không dám chê” người ta cũng khinh.

      Cả năm trời tôi mới có dịp nói chuyện với gã họa sĩ được một lần. Đấy là vào cái dịp sinh nhật lần thứ ba mươi sáu của chị Lệ, cũng bánh kem, cũng nến hồng, nhưng chẳng vui vẻ gì. Gã nhìn tôi không mấy thiện cảm. Buổi sinh nhật chỉ có ba người. Chị Lệ lăng xăng cố làm cho chúng tôi thân nhau:

      - Này anh! Long nó hiền lắm đấy, người đồng hương của em.

      - Ừ!

      - Hồi ở quê khi nó còn nhỏ, nó chơi thân với con Tuyết lắm. Hai đứa thật đẹp đôi, nhưng... ai dè...

      - Ừ!

      - Nó vào đây làm ăn, em xin việc cho nó làm, bây giờ được cấp nhà rồi.

      - Ừ!

      Thấy không thể cạy miệng được người yêu, chị Lệ chuyển đề tài:

      - Nó cũng biết vẽ nữa. Hồi ở quê nó đập cục pin vẽ hình má em giống y hệt.

      Tôi tính nói "Thôi chị ạ !..." nhưng thấy gã nhếch mép cười, tôi điên tiết muốn tống vào mồm gã một quả và hét vào mặt gã: "Đồ thối thây, tao biết mày coi khinh mấy thằng vẽ chân dung, nhưng dù sao thì nó cũng kiếm được vài chục ngàn, chứ không bám váy đàn bà để mà vẽ ba cái thứ đùi chẳng ra đùi, mông chẳng ra mông như mày". Mặc cho tôi lồng lộn trong lòng, sau nụ cười khinh mạn ấy, gã uống rượu tì tì. Gần cuối bữa tiệc gã mới mở miệng bảo tôi theo kiểu đàn anh:

      - Này cậu ạ! Thà chấp nhận sống cho người ta ghét, chứ đừng để người ta khinh vì sự hèn nhát của mình!

      Tôi co rúm người lại, hình như gã đọc được ý nghĩ của tôi. Câu nói ấy đã làm rạn nứt vĩnh viễn mối quan hệ giữa tôi với gã mà chị Lệ đã cố công bồi đắp. Gã nói đúng! Nhưng thói thường người đời rất ghét những ai chọc mũi dao vào yếu huyệt của họ. Tôi không phải là trường hợp ngoại lệ. Lần đầu tiên trong đời tôi uống rượu nhiều đến như vậy. Tôi gục xuống trước ánh mắt thương hại của gã. Chị Lệ dìu tôi về phòng, đắp khăn nóng cho tôi, hình như chị có an ủi tôi:

      - Em đừng giận anh ấy, nghệ sĩ thường hay gàn như vậy nhưng họ là những con người chân chính.

      Tôi không còn biết gì nữa, đầu óc mụ mị. Bàn tay dịu dàng của chị đã đưa tôi về với quê hương bên dòng sông Giao Thủy êm đềm xanh thẳm, đưa tôi về với Tuyết của tôi.

      * * *

      Quê tôi nghèo, nhưng có một dòng sông. Dòng sông là tài sản lớn nhất của tuổi thơ tôi. Trường làng tôi là ngôi đình lớn nằm dưới gốc đa cổ thụ. Cả ba lớp nhất, nhì, ba đều do thầy Hồng đảm trách. Tôi và Tuyết cùng học lớp nhì. Trong số những đứa trẻ cùng trường chỉ có chị em Tuyết là có tên văn hoa nhất. Nhà Tuyết khá hơn những gia đình trong xóm. Ba Tuyết làm lính quân tiếp vụ ở Đà Nẵng. Mỗi chủ nhật ông mang về cả thùng đồ hộp để phát cho lũ trẻ chúng tôi. Mẹ Tuyết không phải “chân lấm tay bùn” như mẹ tôi, nhưng hai bà lại rất thân với nhau. Nhiều lần bà kể cho mẹ tôi nghe “ba của Tuyết muốn dời gia đình ra Đà Nẵng, nhưng bà không muốn xa quê hương xóm giềng”. Tôi cũng cầu mong như vậy. Tôi và Tuyết thân nhau từ bé. Mỗi lần tan học, chúng tôi rủ nhau ra sông để chơi đ src="http://tretoday.net/truyen/content_images/26509_trong.gif" width=1 border=0>ùa trên cát, khi đã chán chê, tôi dẫn Tuyết lùng sục trong các bụi cây bên sông để tìm hoa dủ dẻ. Tôi không thích hoa, tôi chỉ thích trái, bất kể sim, mua, duối hay dủ dẻ... Nói chung bất cứ thứ gì ăn được là tôi thích. Tuyết thường mang hoa dủ dẻ về ủ trong tập cho thơm. Nhìn bàn tay nhỏ nhắn của Tuyết nâng chùm hoa tôi cũng đâm mê. Nhất là cặp mắt đen láy, tròn xoe khép lại nhẹ nhàng mỗi khi tôi dúi những cánh hoa màu vàng lợt vào tay em. Đôi mắt đã làm tôi ngơ ngẩn cả người. Mỗi lần trốn học tìm hoa cho Tuyết, tôi bị thầy Hồng đánh sưng cả mông. Biết chuyện, mẹ tôi mắng:

      - Thằng này lớn lên rồi đến khổ vì gái.

      Ngày ấy, còn quá nhỏ nên tôi không chú ý lắm đến câu nói của mẹ. Chỉ chờ mẹ xoa dầu xong, tôi tót ra sông vùng vẫy thỏa thích. Dòng nước mát vuốt ve thân hình đen trũi của tôi và nụ cười trong trẻo của em sau mỗi cú bông nhông là tôi quên bẵng những trận đòn của thầy Hồng.

      Dạo ấy, chiến tranh xảy ra liên miên trên quê hương tôi. Nhưng đó là nỗi lo của người lớn. Còn với tuổi thơ chẳng có chuyện gì đáng quan tâm vì thường xuyên được nghỉ học và ít bị đòn hơn. Chúng tôi cứ thế lớn lên như cây cỏ đồng bằng.

      Một hôm Tuyết vén áo lên cho tôi xem và bảo: Anh Long! Ở ngực em nổi lên cái cục gì cưng cứng như ngón tay cái vậy?

      Tôi đưa tay sờ thử. Về nhà, đánh bạo hỏi mẹ. Mẹ tôi nạt:

      - Đồ con nít ranh.

      Người lớn thật khó hiểu.

      Sáng ra, mẹ Tuyết qua nhà tôi. Không biết hai bà xì xầm chuyện gì có vẻ bí mật lắm. Hai hôm sau gặp tôi mặt Tuyết đỏ bừng, quay đi... Mấy ngày xa nhau, tôi cứ vơ vẩn như người mất hồn. Cả tháng sau chúng tôi mới chơi lại với nhau. Nhưng tôi không còn dám tắm truồng và hai đứa không còn ôm nhau lăn tròn trên cát như ngày xưa.

      Ba Tuyết tử trận trong ngày Đà Nẵng được giải phóng. Chị vào miền Nam làm ăn. Tuyết nghỉ học sớm ở nhà phụ mẹ. Tôi thi đậu vào Cao đẳng Sư phạm nhưng không đủ tiền ăn học. Tôi buồn đời quyết định vào Nam làm ăn.

     Ngày chia tay bên bờ sông, chúng tôi nắm tay nhau, tôi không dám mở miệng, chỉ sợ mình bật khóc trước mặt con gái. Khi lên tàu tôi mới sực nhớ tôi chưa hề thổ lộ tình yêu của tôi đối với em. Tôi vào miền Nam tìm đến địa chỉ của chị Lệ nhờ chị giúp đỡ tôi trở thành công chức mẫn cán với hy vọng sẽ dành dụm được ít tiền để về quê cưới vợ. Tôi luôn có niềm tin chắc chắn là Tuyết sẽ chờ tôi. Hai năm sau, tôi nhận được thiệp hồng của Tuyết với dòng chữ dửng dưng: "Em lập gia đình, anh gắng về dự đám cưới của em". Tôi đổ gục như một cây chuối bị chặt ngang hông. Tôi không dám về lại quê hương. Tôi không đủ can đảm đặt chân lên bờ sông đầy ắp những kỷ niệm của hai đứa, đầy ắp mùi hương ngọt ngào của hoa dủ dẻ trong ký ức tuổi thơ. “Cầu cho em được một người tình như tôi đã yêu em". Tôi lẩm bẩm nhiều lần câu thơ của Puskin như một người điên.

      Chị Lệ đi đám cưới về mang theo chùm hoa dủ dẻ khô Tuyết gửi vào tặng tôi. Chị an ủi:

      - Cậu đừng trách nó. Mẹ chị bệnh, mình nó lo không nổi, mang ơn người ta, với lại cậu đã nói gì với nó đâu mà bắt nó chờ.

      Tôi mỉm cười cay đắng.

      * * *

      Khi Tuyết dắt con vào đây, chị Lệ đã bỏ đi gần ba tháng. Gã họa sĩ đã "quất ngựa truy phong" lúc chị đang mang bầu. Cắn răng chịu đựng "lời ong tiếng ve" của xóm giềng để nuôi đứa bé cứng cáp rồi chị ẵm con đi. Chị nói với tôi:

      - Chị đi nơi khác làm ăn và chị sẽ trả thù lũ đàn ông bội bạc.

      Tội nghiệp bé Bầu. Ngày ra đi, nó ôm cổ mân mê đùa nghịch chòm râu cằm lởm chởm của tôi. Cầm lòng không đậu, tôi hôn nó ràn rụa nước mắt. Chị Lệ nhờ tôi trông hộ căn nhà. Tuyết đến, tôi giao chìa khóa lại cho em. Qua Tuyết tôi biết mẹ em đã mất. Còn quê nhà cũng không khá hơn ngày tôi ra đi được mấy vì bão lụt triền miên. Chồng của Tuyết là một gã lái buôn cây. Hắn yêu Tuyết điên cuồng như con thú, nhưng lại rất chi li đê tiện. Sau cái ngày hắn vào tận miền Nam hành hung, Tuyết đã khóc và nói với tôi:

      - Nghèo là rất nhục. Nghèo là mất hết tất cả. Phải cần có tiền anh biết không?

      Tôi nghĩ chắc em xúc động quá mới nói như vậy thôi, chứ ngày xưa chúng tôi đâu cần tiền mà cũng hạnh phúc vậy. Tôi san sẻ cùng em món tiền ít ỏi kiếm được từ đồng lương công chức. Tôi hy vọng khi nỗi buồn qua đi tôi sẽ nhắc lại với Tuyết những kỷ niệm thời thơ ấu. Chắc là Tuyết sẽ hiểu được lòng tôi.

      Chúng tôi dường như không có duyên nợ với nhau. Tôi chưa kịp nói với Tuyết dự định của tôi thì chị Lệ trở về. Đi với chị là người đàn ông mập mạp trên chiếc xe hơi đời mới bóng lộn. Hai chị em ôm chầm lấy nhau mừng rỡ:

      - Chị về quê tìm em mới hay em vào đây. Biết chuyện, chị đã lo thủ tục ly hôn cho em.

      - Cảm ơn chị.

      - À quên! - Chị Lệ quay qua tôi - Chị em lâu ngày gặp nhau mừng quá, quên giới thiệu với cậu Long, đây là anh Đường, ông xã của chị. Giám đốc Khách sạn Hoa Biển ở Vũng Tàu. Còn đây là cậu Long cùng cơ quan cũ với em.

      Ông Đường hờ hững đưa tay về phía tôi. Tôi nắm bàn tay mềm nhũn đầy đặn của ông. Tôi có cảm giác như đụng phải con sùng đất. Chị Lệ vốn đã đẹp nay càng rực rỡ hơn trong bộ trang phục đắt tiền. Chẳng trách sao chị mê hoặc được người đàn ông tóc đã hoa râm.

      Đầu óc tôi choáng váng khi nghe chị Lệ giục Tuyết:

      - Bỏ hết, xuống dưới đó rồi sắm lại. Ba cái đồ này xuống Vũng Tàu ai mà xài.

      "Ba cái đồ" tôi nhịn ăn, nhịn mặc để sắm cho Tuyết! Thêm một lần nữa, tôi để vuột mất hạnh phúc trong tầm tay.

      Cảm thấy mình thừa thãi, tôi cúi xuống ôm thằng bé con của Tuyết vào lòng:

      - Cháu ngoan của chú, đi rồi có nhớ chú không?

      - Nhớ chú nhiều.

      - Có thương chú không?

      - Thương chú nhất sau mẹ Tuyết.

      Tôi nghe nghẹn nơi cổ. Tôi bỗng nhớ bé Bầu con chị Lệ, chẳng thấy cháu đâu. Tôi muốn hỏi chị nhưng không dám. Nhìn chiếc xe hơi bóng loáng vút đi mang theo hai mẹ con Tuyết, tôi cố nuốt miếng nước bọt qua cổ họng khô khốc của mình.

      * * *

      Chuyện xảy ra đã lâu rồi mà tôi vẫn không thể tin được là con người có thể thay đổi nhanh chóng đến như vậy. Tôi không muốn kể thêm đoạn này. Nó cứ rờn rợn làm sao ấy. Nhưng thật sự không thể giấu được dù nó tàn nhẫn như mũi dao xuyên qua trái tim ngu muội của tôi.

      Tuyết đi được nửa năm nhưng chẳng có lấy một lá thư. Tôi nhớ quay quắt, tìm xuống Vũng Tàu. Đứng trước biệt thự đồ sộ của ông chủ khách sạn, tôi không dám bấm chuông. Đón xe trở về Long Khánh, tôi ôm đầu nguyền rủa sự nhút nhát của mình.

      Một năm sau Tuyết về thăm tôi trên chiếc Dream II màu nho. Tôi sững sờ không còn nhận ra cô thôn nữ ngày nào.

      Tuyết bảo tôi:

      - Chị Lệ biểu em về nói với anh là chị Lệ cho anh căn nhà của chị, anh bán kiếm ít tiền phòng thân. Chứ người khờ như anh có ngày chết đói. Còn em, em đã có nhà riêng, có xe. Khi nào về Vũng Tàu ghé lại nhà em, em sẽ tiếp đãi anh như vua. “Ông xã” của em lâu lâu mới qua Việt Nam ghé ở vài bữa rồi chạy qua bên đó với bà vợ già của lão, anh đừng ngại...

      Tuyết nheo mắt nhìn tôi cười, nói giọng tỉnh queo. Còn tôi ngồi trơ trên ghế mồm há hốc như trời trồng, đầu óc mụ mẫm, mọi thứ xung quanh như quay cuồng chao đảo.

      Tuyết đi đã lâu rồi tôi mới sực tỉnh.

      Tôi gục xuống bàn.

      Tuyết ơi! Tuổi thơ của tôi ơi!

      Tôi muốn nghĩ ra một đoạn kết thật tuyệt vời cho mối tình của chúng ta, nhưng đã muộn mất rồi!



Theo: PNCN

69




Bà vợ nổi tiếng hay chì chiết chồng, sau khi xỉ vả thịnh nộ hơn một tiếng đồng hồ, nhìn thấy chồng vẫn im lặng bèn hạ câu cuối cùng:

Ông muốn tôi câm điếc cho vừa lòng hả!

Ông chồng lơ đễnh nhổ râu, thủng thẳng đáp:

Tôi đâu dám mơ ước được cả một lúc hai phép lạ ấy!

2840




Powered by Blogger.