Trong Dưỡng trí viện, ông giám đốc bắt gặp một thân chủ vén áo cho một bạn đồng viện liếm lưng lia lịa. Ông hỏi:

Hai anh làm gì thế?

Anh kia thụt lưỡi vào đáp:

Đây là một trò chơi mới sáng chế ra.

Ông giám đốc ngạc nhiên:

Trò chơi à? Hai anh chơi gì đấy?

Anh kia nói:

Chúng tôi chơi trò bưu điện. Thằng này làm con tem, tôi liếm nó để dán lên bao thư.

2813




Chú bé Bill chạy vào tiệm tạp hóa ở góc đường:
- Bác chủ đâu rồi? Mau lên! Gấp lắm!
- Có chuyện gì thế?
- ông chủ vội vàng hỏi.
- Bố cháu cưa cành cây, bị cái chạc móc vào thắt lưng đang treo lơ lửng trên cao...
- Chà! Vậy cháu muốn tìm cái thang hở?
- Không ạ! Cháu muốn mua cuộn phim, lắp vào máy ảnh cho cháu, mau lên!
1715




     Làm người ai cũng có đấng sinh thành là CHA MẸ. Đặc biệt nhân mùa Vu Lan báo hiếu này tôi xin được nói về Mẹ như một bó hoa tưởng niệm Mẹ tôi vừa mới qua đời tại Việt Nam ngày 1.3.1996.

      Khi đề cập đến Mẹ trong ngôn từ tiếng Việt ta thử so sánh với nhiều ngôn ngữ khác nhau gọi Mẹ như thế nào và thử tìm xem có từ nào mà toàn thể các dân tộc trên thế giới này có tiếng gọi chung về Mẹ hay không? Mẹ trong văn hóa và tập tục của Đông Phương và Tây Phương như thế nào? Mẹ trong kinh điển Phật Giáo, và phương pháp báo hiếu ra sao?

      I. Danh từ MẸ

      Trong tiếng Việt gọi MẸ là người đàn bà đã sinh ra ta. Trong đó bao gồm ý nghĩa mười tháng cưu mang chịu không biết bao nhiêu điều cực nhọc cho đến ngày khai hoa nở nhụy và nuôi nấng dạy dỗ con đến khi khôn lớn nên người. Những thâm ân đó chỉ khi nào chúng ta nuôi con mới biết được công ơn của Cha Mẹ. Như đức Khổng Tử đã nói: "dưỡng tử phương chi phụ mẫu ân" (khi nuôi con mới biết được công ơn của cha mẹ). Danh từ MẸ ấy tiếng Tây Ban Nha gọi là Madre, tiếng Ý cũng gọi là Madre. Tiếng La tinh là Mater. Tiếng Anh là Mother. Tiếng Đức là Mutter. Tiếng Pháp là La Me`re. Tiếng Hy Lạp là Mitera. Tiếng Nga là Mat. Tiếng Iran là Modar. Tiếng Trung Hoa là Mouchan. Tiếng Ấn Độ là Mata. Tiếng Nhật là Okaasan. Tiếng Ả Rập là Waldetak. Kể cả tiếng Việt tất cả mười bốn ngôn ngữ vừa nêu trên hầu như là đại đa số các dân tộc trên thế giới ngày nay đang dùng những ngôn từ đó. Trừ tiếng Nhật và tiếng Ả rập có âm vận riêng còn mười hai ngôn ngữ còn lại âm vận na ná giống nhau và điều bắt đầu bằng mẫu tự "M".

      Có điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tất cả các nước trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng, thế nhưng khi nói danh từ MAMA tất cả điều biết đó là MẸ. Làm sao tôi có thể cả quyết điều đó. Bởi vì chính tôi đã tiếp xúc trực tiếp với mấy chục người nói những ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau nhưng khi hỏi danh từ MẸ trong ngôn ngữ họ tất cả đều gọi là MAMA. Tôi chưa thỏa mãn. Vì tôi biết từ đó không phải là ngôn ngữ chính gốc của họ nên lần lược họ mới cho tôi biết từ chính gốc trong ngôn ngữ riêng biệt của mỗi dân tộc. Thế nhưng tại sao lại có một từ phổ thông như thế. Theo tôi nghĩ là tiếng nói bập bẹ đầu tiên của một đứa bé vừa tập nói mà ra rồi thành ra tiếng nói phổ thông bất thành văn trong dân gian của mỗi dân tộc mà thành. Trừ danh từ MAMA là MẸ vừa nói ngoài ra không có một từ nào có tính phổ thông như thế cả. Như vậy đủ chứng tỏ MẸ là thiêng liêng cao cả không có người nào hoặc vật gì khác có thể sánh bằng MẸ. Khi nghĩ về công sanh thành dưỡng dục đứa con mà nói, ngay cả CHA cũng không bằng MẸ. Vì chỉ có thân thể người MẸ mới có thể thai nghén và sinh con ra được mà thôi.

      II. MẸ trong xã hội Đông Phương (trường hợp điển hình của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản)

      A- Tại Việt Nam

      Mẹ là người mười tháng cưu mang, ba năm bồng bế, sau đó là giáo dục cho con nên người hữu ích trong xã hội như trong Chinh Phụ Ngâm đã nói:


Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân


      Hai câu thơ trên còn nói lên bổn phận, công lao của người mẹ đối với con với chồng trong gia đình Việt Nam.

      Cha mẹ là chỗ dựa tinh thần và là cây cổ thụ để con nương nhờ về vật chất:


Gió đưa cây cửu lý hương
Con xa cha mẹ thất thường bữa ăn
(không rõ tác giả)


      Hoặc là:


Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
(Ca dao)


      Hay là những câu thơ sau đây đã nói lên được một phần công ơn của người mẹ. Trong thời kỳ đầu của sự thai nghén người mẹ phải chịu:


… Sự buồn nôn của thời kỳ đầu thai nghén
Mặt mày xanh choáng váng lúc chiều về
Mắt tối sầm dù nắng đẹp trưa hè
Những thú vui không màng mơ tưởng đến
(thơ Như Tạng)


      Khi bào thai trong thời kỳ phát triển trong cơ thể người mẹ:


… Mỗi ngày con mỗi lớn
Da căng theo ngày tháng bước nặng dần
Cử kiêng từng hành động lẫn thức ăn
Đêm trằn trọc dáng nằm ngồi khó nhọc
(thơ Như Tạng)


      Nỗi lo lắng và đau đớn của người mẹ trong lúc sinh nở:


… Nỗi lo của người gần sinh nở
Những cơn đau quằn quại vỡ người
Kịp đến khi nghe con khóc chào đời
Hồn nhẹ nhõm cơn đau dường dừng lại
(thơ Như Tạng)


      Công lao của người MẸ nuôi con và lo giáo dục, lo tương lai cho con mình:


Và con sẽ lớn lên người dạy bảo
Nuôi nấng, nâng niu, ấp ủ, dỗ dành
Vì tương lai MẸ lo lắng tảo tần
(thơ Như Tạng)


      Biết bao nhiêu là thơ, nhạc, văn chương nói về MẸ. Nào là ví lòng MẸ? hư biển rộng bao la như trời cao không cùng tột… Bài nào nói về MẸ cũng hay, cũng réo rắt, cảm động dễ đi vào lòng người. Bởi vì nói về MẸ là nói về tình thương, mà tình thương thì bắt nguồn từ cõi lòng chân thật và sâu lắng nhất của tâm hồn mình. Do đó nói về MẸ là nói về những gì mình có kinh nghiệm sống thực, những xúc động chân thành những suối nguồn êm dịu trong làn
h mát mẻ nhất. Vì thế cho nên những bài thơ, nhạc… viết về MẸ đều hay và cảm động.

      Vì ân trọng đối với MẸ như thế nên ngày xưa trong xã hội Việt Nam không được làm đám cưới hoặc người vợ không được có thai trong lúc thọ tang CHA MẸ.

      Trong sách "Hải Dương Phong Vật Chí" của Trần Đạm Trai có ghi: "Cổ thời trọng đạo hiếu đến nỗi luật pháp cấm vợ có thai trong khi tang chế, đến thời Lê Thánh Tông mới bỏ lệ ấy, nhân vì có người tỉnh Hải Dương huyện Đường An xã Thời Cử tên là Nguyễn Kim An, thuở nhỏ hàn vi, thời Hồng Đức (1470-1497) làm lính chầu trong cung. Vua thấy có tài cho về đi học, 22 tuổi đỗ Hương cống, rồi thi hội thi đình đỗ Bảng nhãn (học vị của người thi đỗ thứ hai, sau Trạng nguyên trong khoa thi đình). Được bổ làm quan ít lâu, về cư tang, giữ trọn ba năm đạo hiếu thì mất, không có con trai, vua cảm thương, từ đó bỏ lệ kia".

      "Các triều vua thường khuyến miễn thuần phong mỹ tục vẫn nhắc nhở đạo hiếu, như lệnh vua Lê Huyền Tông ra ngày 11 năm Cảnh Trị thứ ba (1665) cho tinh biển những người có hiếu hạnh, trong biển ghi tên tuổi quán chỉ người được khen thưởng và nói rõ duyên do có hiếu hạnh như thế nào) (Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính). Lệnh vua Hàm Nghi năm đầu (1884) ban thưởng biển son khắc bốn chữ vàng HIẾU HẠNH KHẢ PHONG cho những người có tiếng hiếu hạnh (Đại Nam Điê?Lệ)". (theo sách Đất Lề Quê Thói của Nhất Thanh, 1992).

      Những gương hiếu thảo ngày xưa nhiều khi đã phải hy sinh thân mình để cứu mạng cha mẹ. Trong sách "Việt Nam văn học toàn thư" của Hoàng Trọng Miên có ghi trường hợp: "Lãnh Tạo người làng Tuần Lễ tỉnh Nghệ An, chống đối triều Minh Mạng. Lê Văn Duyệt được cử làm Tống trấn Nghệ an để dẹp Lãnh Tạo, bị Tạo lừa, ngang nhiên đem quân lính tới dinh trấn giả làm đi thanh tra; Lê Văn Duyệt dụ hàng, tâu vua cho làm quan, Tạo không chịu, chỉ ưng thuận vàng bạc rồi đi. Sau đó Lê Văn Duyệt sai lính bắt giữ mẹ và vợ của Tạo. Vì thương mẹ mà Tạo phải ra hàng…".

      Năm 1962 thầy Nhất Hạnh cho ra đời tác phẩm Bông Hồng Cài Áo rất nổi tiếng và rất thành công trong mục đích cổ võ cho Ngày Mẹ nhằm ngày Vu Lan rằm tháng Bảy âm lịch. Hiện nay ngày rằm tháng Bảy đã hiển nhiên trở thành ngày Mẹ của người Việt Nam. Trong ngày ấy hoa hồng được cài cho người có diễm phúc còn mẹ và hoa trắng cho những người mà mẹ đã qua đời.

      Theo truyền thống Đông Phương thì hiếu đứng đầu trăm hạnh lành như trong Nhị Thập Tứ Hiếu Diễn Âm của Lý Văn Phức có câu:


Chữ hiếu hạnh niệm tròn một tiết
Thời suy ra trăm nết điều nên


      Người bất hiếu nghĩa là đối xử không tốt với đấng sinh thành của mình thì khi ra đời không còn ai tin tưởng người ấy nữa. Do đó mà trăm sự trăm việc sẽ đỗ vỡ, không thể thành công trên đường đời dù là việc nhỏ hay việc lớn.

      B. Tại Trung Quốc

      Trường hợp Trung Quốc ngày xưa có nhiều điểm giống Việt Nam trong những câu chuyện về hiếu đạo. Còn cha mẹ tại thế để được phụng dưỡng là một niềm vinh hạnh và là nỗi vui sướng trong đời:

      Nhất nhật đại dưỡng bất dĩ Tam Công hoán (Còn được nuôi cha mẹ ngày nào thì dẫu cho đổi lấy chức Tam Công cũng không màng. Tam Công là ba chức quan lớn nhất của chế độ quân chủ ngày xưa: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo).

      Nhiều người khi mẹ mất làm nhà bên cạnh mộ mẹ ở để nhang khói cho đến lúc mãn tang.

      Quan niệm của nhà Nho rất nghiêm khắc về hiếu hạnh. Đạo làm con lúc còn nhỏ phải kính cẩn vâng lời cha mẹ dạy bảo, hầu hạ cha mẹ. Khi lớn khôn ra đời thì lo phụng dưỡng ngọt bùi ấm lạnh cho cha mẹ.

      Trong truyện Kiều Nguyễn Du cũng đã nhắc đến phong tục báo hiếu của người Trung Hoa qua điển tích Lão Lai, người đã bảy mươi tuổi vẫn mặc đồ hoa hòe sặc sỡ ra sân múa hát cốt làm cho cha mẹ được vui lúc tuổi già bóng xế:


Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử cũng vừa người ôm
(Kiều)


      Trong Pháp Bảo Đàn Kinh phẩm Hành Do có nói đến hiếu hạnh của Lục Tổ Huệ Năng. Trước khi ngày đi tu, cha mất sớm, mẹ góa con côi, hằng ngày ngài phải gánh củi ra chợ bán để kiếm tiền phụng dưỡng mẹ.

      C. Tại Nhật Bản

      Trường hợp Nhật Bản trong truyện cổ tích có câu truyện của người con hiếu thảo như sau: ngày xưa trên đảo Kita có anh chuyên làm nghề chài lưới tên là Taro ngày ngày lo đánh cá nuôi mẹ. Mẹ anh đã tám mươi tuổi, anh cũng đã lớn tuổi mà không chịu lấy vợ sinh con để nối dõi tông đường theo như phong tục người Nhật. Mẹ thường hay bảo anh hãy lấy vợ sinh con nhưng anh nhất định không, vì sợ lấy vợ phải lo cho vợ con không có thì giờ hầu hạ mẹ. Taro nói rằng:


Con dù xác thịt thai phàm
Cũng lo phụng dưỡng xin an tấc lòng…


      Trường hợp Nhật bản ngày nay họ cũng áp dụng Ngày Mẹ như các nước Tây Phương chọn ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm để kỷ niệm. Họ gởi thiệp, tặng hoa và tặng quà cho Mẹ để tỏ lòng hiếu kính và yêu thương Mẹ.

      III. Mẹ trong truyền thống xã hội Tây Phương (trường hợp của Hoa Kỳ và các nước Tây phương khác)

      Mother’s Day (Ngày Mẹ) là ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm mỗi năm. Mỗi năm đến Ngày Mẹ dù người lớn bao nhiêu tuổi mà có diễm phúc còn mẹ đều rất sung sướng về thăm Mẹ, tặng Mẹ một thiệp chúc mừng Ngày Mẹ, một món quà và một món hoa tươi để mừng Mẹ được sống lâu. Tục lệ này hầu hết các nước Phương Tây đều áp dụng như Hoa Kỳ, Anh úc Đại Lợi, Thụy Điển, Đan Mạch v.v… Người Tây Phương giải thích rằng họ làm như vậy là để biểu lộ tình thương và lòng hiếu kính đối với Mẹ.

      Khởi nguyên của ngày này là do bà Julia Ward Howe khởi xướng năm 1872 tại Hoa Kỳ. Vài năm sau tại Boston, tiểu bang Massachusetts, bà đã kêu gọi và đã thành công trong buổi tập hợp kỷ niệm Ngày Mẹ hàng năm.

      Bà Julia Ward Howe là một học giả, giảng sư Đại học rất nổi tiếng đương thời của Hoa Kỳ.

      Mãi đến năm 1914 quốc hội Hoa Kỳ mới chấp nhận Ngày Mẹ nói trên như một ngày lễ quốc gia bằng một đạo luật do quốc hội thông qua.

      Kể từ đó các nước theo văn hóa tây Phương hoặc ảnh hưởng của nền văn hóa của họ đều theo phong tục kể trên để biểu lộ lòng hiếu kính và yêu thương đối với mẹ. (theo sách "The World Book Encyclopedia" xuất bản tại Hoa Kỳ, 1992).

      IV. Mẹ trong kinh điển Phật giáo

      A. Tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật

      Trong bài kinh BÀ MẸ HỒI CÁC ĐỜI TRƯỚC (trong sách "Một trăm bài Kinh Phật" của Đoàn Trung Còn, không ghi năm xuất bản) có ghi tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật như sau:

      Lúc ấy Phật ngự với Giáo Đoàn chư đại tỳ kheo tại xứ Ca-căn-ga-la (kacangala). Trong cảnh rừng ở đó, có bà già tên là Ca-căn-Ga-Lác (Kâcangalâ), bà xách một cái bình đến giếng mà múc nước.

      Lúc ấy Đức Thế Tôn gọi A-Nan và bảo rằng: "Này A-Nan hãy đi nói với bà ấy rằng, Đức thế Tôn khát nước, bà cho ngài uống với".

      A-Nan nói với bà mấy lời ấy, bà đáp rằng: "Để tôi đem đến cho Ngài".

      Bà đổ nước đầy bình mang đến trước mặt Phật. Bà thấy Phật rất trang nghiêm với 32 tướng chánh, 80 tướng phụ, một vòng hào quang sáng ngời.

      Bà vừa thấy Phật, cái tình mẹ thương con nẩy sinh trong lòng bà, bà vội đưa tay lên ôm hôn Đức Phật vừa nói rằng: "Con tôi! Con tôi!". Mấy vị tỳ kheo muốn cản bà lại nhưng Đức Phật liền phán rằng: Này chư tỳ kheo! Chớ cản bà ấy. Tại sao vậy? Bởi vì trong năm trăm đời liên tiếp bà đã là MẸ ta:


Vì tình mẫu tử sâu xa
Nên bà chạy đến ôm ta hôn nhầu
Ai mà ngăn cản đón đầu
Thì bà giận tức máu hầu tuôn ra
Ta đây nhớ MẸ buổi qua
Cám ơn nghĩa nặng vì ta bao đời
Từ bi, thương xót lấy người
Nên ta chịu để ôm vùi mà hôn


      Liền sau đó Đức Thế Tôn thuyết pháp Tứ diệu Đế để độ bà. Bà liền chứng quả Tu-Đà-Hườn và đọc bài kệ như sau:


Làm con mà biết báo đền
Tác thành việc khó, đáp tình mẫu thân
Thế Tôn giữ trọn hiếu phần
Giúp ta đổi tánh thoát trần dứt mê
Độ ta ra khỏi bến mê
Đường tiên đường Phật đưa về đúng nơi
Con ta chuyển sức ra tài
Đặng làm việc tốt, đáng đời kính khen.


      Sau đó bà xin phép xuất gia và nhập vào hàng tỳ kheo ni. Bà tinh tấn tu hành và chứng quả A-La-Hán.

      B. Kinh Tâm Địa Quán

      Kinh Tâm Địa Quán, phẩm báo ân, Đức Phật nhân tán thán 500 vị trưởng giả thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà đến cúng dường Phật và đại chúng. Đức Phật giảng cho họ nghe về công ơn sanh thành của mẹ như sau:

      "… Mẹ hiền thương con, thật không lấy vật gì để so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi vào thai trải qua 10 tháng, những lúc mẹ đi, đứng ngồi nằm chịu trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo mặc, dú có được cũng chẳng mừng, vì lòng lo lắng không hề dứt, chỉ lo nghĩ đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thì như trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân. Nếu khi sanh đẻ được an lành, ba mẹ cùng các người thân thuộc cùng chung vui sướng y như kẻ nghèo được châu báu. Sự đau khổ của mẹ trong mười tháng do một tiếng khóc đầu tiên của con khi mới lọt lòng mà nỗi khổ ấy mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế làm chỗ dạo chơi, và do nước giếng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi ơn đức của mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng sánh kịp. Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thì được chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng…"

      (Kinh Tâm Địa Quán, H.T.T Tâm Châu dịch). (tham khảo sách Cho Trọn Hiếu Ân của T.T.T. Bảo Lạc, 1991).

      C. Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân

      Nhân khi Đức Phật dẫn đại chúng đi hành đạo hướng về phương Nam. Giữa đường Đức Phật đến lại trước một đống xương khô đã lâu đời chất to như quả núi. Đại chúng thấy vậy không rõ nguyên do, A Nan liền bạch Phật sinh dạy cho biết tại sao Đức Thế Tôn lại làm như thế. Phật chỉ rõ rằng đóng xương đã chồng chất đó rất lâu đời về trước nên biết đâu trong đó có xương của cha, mẹ, vợ, con, anh, em ta nhiều đời trước. Vì lòng hiếu kính nên ta lạy đống xương như vậy. Đức Phật đã dạy bảo đại chúng rất nhiều về công ơn sinh thành của cha mẹ, đặc biệt mười điều chúng ta nên ghi nhớ như sau:


Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ hai sinh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳntg nhờm chẳng ghê
Điều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chă? màng tội lỗi bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng…


      ("Kinh Đại báo Phụ Mẫu Trọng Ân", không rõ dịch giả) Ngoài mười điều ân trọng ghi trên toàn bài kinh Đức Phật còn chỉ rất rành rẽ từng ly từng tí một về công sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ cho con nên người. Đọc toàn bài kinh được chuyển ngữ thành thể thơ song thất lục bát khiến tôi bùi ngùi xúc động đến rơi nước mắt nhiều lần khi nghĩ đến người mẹ vừa mới qua đời. Tôi thấy mình bất hạnh vì đã xa cha mẹ rất lâu năm, và bây giờ nhìn đóa hoa trắng trên áo tôi mới thấm dần thấ, dần và hiểu nghĩa rất sâu sắc của tâm trạng kẻ mồ côi mẹ.

      Đây bầu trời đen tối đã phủ kính tâm hồn tôí! Tôi trở thành kẻ mồ côi mẹ, đau đớn quá! Cho dù tôi đã bao nhiêu tuổi trên đầu…

      V. Phương pháp báo hiếu

      Tôi nghĩ ai có khát nước đến cùng cực khi gặp nước mới thấy nước quí giá vô vàn. Vấn đề báo hiếu cũng vậy. Ai đã mất cha mẹ mới thấy phương pháp báo hiếu của Đức Phật dạy là quí báu.

      Lấy kinh nghiệm của bản thân mà nói, khi mẹ tôi còn tại thế tôi vẫn thường xem kinh sách, vẫn tin lời Đức Phật dạy, vẫn cầu nguyện cho cha mẹ trong bảy đời đã qua trong quá khứ siêu sanh về miền Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, như trong kinh Vu Lan đã dạy.Vẫn luôn luôn học về gương hiếu hạnh của đức đại hiếu Mục Kiền Liên. Vẫn biết về ngày Mother's Day của các nước Tây Phương, và truyền thống báo hiếu của Đông Phương. Thế nhưng những việc làm đã qua của tôi là do lý trí chủ đạo. Còn việc báo hiếu của tôi nhân mùa Vu Lan năm nay được thúc bách bởi một sự mất mát to lớn nhất trong đời tôi. Đồng thời nó bắt nguồn từ lòng thương mẹ mà ra. Tôi muốn tìm một cái gì đó, một hành động nào đó để may ra lấp bớt được một khoảng trống tâm hồn.

      Ngược dòng thời gian về thời điểm trước khi mẹ tôi qua đời, tôi thường tìm hiểu xem những người không phải là Phật tử họ nghĩ gì về tôn giáo của mình, để có thêm kiến thức. Tôi cũng tìm hiểu được những giáo lý của đức Phật dạy được các học giả khác tôn giáo với mình và các nhà khoa học, triết gia Tây Phương có những nhận xét gì về Phật giáo để cũng cố thêm niềm tin của mình về phương pháp báo hiếu của đức Phật đã dạy.

      Trong đó có Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận là rất nhiều tín đồ thiên Chúa Giáo có cả các vị Linh mục đã áp dụng phương pháp thiền quán để tu tập, trao dồi thân tâm của họ.

      Một học giả đạo Hồi đã nói: "Đức Phật là của cả nhân loại. (Buddha is for whole mankind. The Buddha is not property of Buddhists only. He is the property of whole mankind. His teaching is common to everybody. Every religion, which came into existence after the Buddha, has borrowed many good ideas from Buddha).

      Triết gia Bertrant Russel ca ngợi Phật Giáo có triết lý hành động vĩ đại nhất và lâu đời nhất...

      Có thể nói khoa học gia nổi tiuếng nhất của thế kỷ, Albert Einstein, đã nói là "Phật giáo đương đầu với khoa học" (Buddhism copes with Science), (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).

      Theo tôi không phải Phật giáo đương đầu với khoa học mà Đức Phật đã hướng dẫn cho khoa học tự nhiên tiến lên về mọi mặt mới đúng. Tôi klhông muốn dài dòng trích dẫn lời Đức Phật để chứng minh ở đây vì bài báo đã quá dài. Xin mời bạn đọc đọc Duy Thức Học ta sẽ thấy Đức Phật đã giải thích về nguồn gốc của con người và vũ trụ rất tinh tế, rất khoa học khiến các nhà khoa học, các triết gia phải tìm tòi học hỏi.

      Giáo sư Rhys Davids nói rằng: "Không có tôn giáo nào vượt trội hơn Phật giáo" (Nothing to surpass Buddhism. Buddhist or not buddhist, I have examined everyone of the great religious systems of the world, and in none of them I have found anything to surpass, in beauty and comprehensiveness, the Noble Eightfold Path and the Four Noble truths of the Buddha. I am content to shape my life according to that path). (Tham khảo sách "BUDDHISM in the EYES of INTELLECTUALS" của K. Sri Dhammananda).

      Trở lại lời Phật dạy về phương pháp báo hiếu kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân và Kinh Vu Lan: Phật đã dạy rằng vì công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn. Vì thế chúng ta không thể nào đền đáp công ơn ấy bằng phương diện vật chất hữu hạn được. Hơn nữa trong cõi luân hồi kể từ vô thỉ đến nay chúng ta có không biết bao nhiêu là cha mẹ thì làm sao chỉ dùng những phương tiện vật chất để phụng dưỡng cha mẹ hiện tiền mà có thể đền đáp thâm trọng ân ấy. Phật đã cho thí dụ là:


Vì có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng...
(Kinh báo Ân)


      Như vậy phải làm thế nào để báo đáp được hiếu ân đó. Đức Phật đã dạy rất nhiều phương pháp trong rất nhiều kinh điển như bố thí Ba La Mật, thân cận Ba La Mật, chân thật Ba La Mật... Nhưng hôm nay xin theo các bộ kinh đã dẫn và đặc biệt về sự giới hạn của bài này nên chúng tôi xin tóm lược thành hai phương pháp đơn giản: TỰ LỰC và THA LỰC.

      Thứ nhất là: TỰ LỰC

      Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, cầu Phật Đạo giải thoát, tiến tu, thật học để đem khả năng của mình giảng giải cho mọi người chung quanh chúng ta cùng phát tâm ấy, hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và cuối cùng là cầu nhất thừa Phật Đạo.

      Giai đoạn đầu là chúng ta phải học hỏi và hiểu thấu đáo về thâm ân sinh thành của cha mẹ. ăn năn hối cải những lỗi lầm, nếu có, từ trước đã làm hại mình hại người vạ lây tiếng xấu đến song thân. Giai đoạn kế tiếp là phải siêng năng không ngừng nghĩ để đạt dược những thành công lớn trong đời, khiến cha mẹ vui lòng toại nguyện, an tâm vì con... Và làm thế nào để cho cha mẹ cảm nhận được lòng hiếu kính, yêu thương của mình đối với cha mẹ. Đồng thời phải có tâm niệm sung sướng không gì bằng khi mình còn được cha mẹ trên đời, Bởi vì nếu cha mẹ biết được điều đó cha mẹ cũng sung sướng vô vàn. Những điều vừa kể rất đơn giản nhưng không kém phần khó khăn khi thực hiện được nó. Giai đoạn cuối cùng như trên đã nói là cầu Nhất Thừa Phật Đạo để giải thoát cho mình, và phổ độ giải thoát cho cha mẹ nhiều đời đã qua và hiện tiền cha mẹ sống lâu và tránh khỏi những ách nạn trong đời.

      Thứ hai là: THA LỰC

      Như Đức Phật đã dạy trong kinh Vu Lan, cho dù đã chứng được quả vị Bồ Tát và đã được thần thông quảng đại như ngài Mục Kiền Liên, cộng với tiếng tăm vang lừng cả trời người đều nể phục đi chăng nữa một mình ngài không thể cứu được mẹ ngài trong địa ngục và càng klhông thể cầu siêu độ cho cha mẹ bảy đời trước đó nữa. Như vậy chỉ có một cách là cầu THA LỰC. Hay nói đúng hơn là cầu cộng lực của chư tăng trong mười phương tụ hội về nhân ngày rằm tháng bảy. Trong hàng chư tăng đó gồm có phàm tăng, thánh tăng, và những hàng bồ tát mười phương vì nguyện lực độ sinh nên các ngài đã hiện hình làm phàm tăng thân cận chúng ta.

      Nhân ngày ấy nhờ thần lực chư tăng chú nguyện cho sở cầu báo hiếu của chúng ta được viên thành.

1273




Tại trường Đại học Ngoại giao, giờ seminar về các tình huống, Giáo sư đưa ra đề tài ứng xử nhanh như sau:
- Nếu trót bước lầm vào một phòng vệ sinh khác giới, đối mặt với đám đông đang "on line", anh chị sẽ xử trí thế nào? Sinh viên nhao nhao:
- Rất tiếc, xin quý vị cứ tự nhiên.
- Xin lỗi các bạn, mình đãng trí quá!
- Lao nhanh ra ngoài hoán vị hai tấm biển.
- Lặng lẽ quay ra ấp khăn lạnh lên mặt.
- ... ... ...
- Sai bét cả
- vị giáo sư ngắt lời
- Cách tốt nhất để hóa giải tình huống này, chúng ta cần sử dụng kịch bản gọi là "thong manh": Lập tức cố định tròng mắt, giữ nguyên hướng nhìn, sau đó chuyển mắt sang trạng thái dài dại, mất phản ứng. Tiếp theo, tay quờ quạng, chân dò dẫm, môi mấp máy, và... từ từ lần theo tường quay ra.
2338





Một cô gái gặp vấn đề về chiều cao, cô cao đến 2m và thường phải cúi người người xuống khi bước qua cửa nhà, và cô cũng không thoải mái khi đi xe. Cô gái quyết định đi gặp một chuyên gia. Ông ta bảo:

- Cô hãy đến thăm thị trấn những người lùn. Nơi đấy đầy những người lùn sống mà thôi. Hãy gặp bất cứ một người nào ở đấy và hỏi coi anh ta có muốn cưới cô làm vợ hay không. Cứ mỗi khi một người lùn nói “không” thì chiều cao của cô sẽ giảm đi 10cm.

Cô gái đồng ý và đến thăm thị trấn người lùn. Cô gặp một người lùn và hỏi anh ta có muốn cưới cô không. Anh lùn từ chối. Cô gái liền nhận thấy chiều cao giảm đi 10cm ngay lập tức. Cô tiếp tục lặp lại câu hỏi với một người lùn khác. Và cô chỉ còn 180cm, thế là cô gái quyết định hỏi thêm nhiều nguời lùn khác trước khi về nhà. Cô bước đến trước mặt một anh lùn nọ và hỏi liệu anh ta có muốn lấy cô làm vợ không. Anh lùn trả lời:

- Không, không, không, không, không…! Tôi không muốn lấy một người cao như cô! Cô quá cao! Không, không, không, không, không bao giờ!!!

1405




- Cậu ấy là sinh viên, mà sao vô ý vô tứ, vào nhà người ta, chẳng chào hỏi ai cả, cứ tự nhiên như không thế nhỉ ?

- À, cậu ấy đang học Đại học Khoa học Tự nhiên mà lại !



o O o


Tại một ký túc xá sinh viên , một chàng vừa tỉnh dậy ngồi khóc hu hu, bạn khác lại hỏi:

- Ủa, sao mày khóc?

- Tao nằm mơ thấy đang ăn mì.

- Ăn mì đã thí mồ mà sao mày khóc?

- ... nhưng thức dậy tao thấy dây giày của tao mất tiêu.

- Trời!!1174




Một bộ trưởng vừa mướn được người giúp việc. Bà lớn căn dặn:

Mỗi khi tôi bảo chị lấy một món gì đưa tôi thì phải bỏ món đó vào vào khay hay dĩa đàng hoàng rồi bưng lên tôi, nghe không!

Người giúp việc cúi đầu vâng lời. Một lúc sau bà bộ trưởng bảo chị lấy cái áo choàng cho bà. Chị ở vội vàng vào tủ lấy cái áo choàng bỏ vào cái dĩa lớn, đem đến. Bà bộ trưởng ngạc nhiên quát:

Bộ mày điên rồi sao? Ai lại để cái áo choàng vào dĩa như vậy?

Người giúp việc bình tĩnh trả lời:

Thưa bà, bà vừa bảo con là bất cứ cái gì đưa cho bà cũng phải bỏ vào khay hoặc dĩa cơ mà!

2829




Trong phòng đợi của ông trưởng toà, một ông đứng tuổi ngồi chờ khá lâu, lấy làm nóng ruột, gõ cửa bước vào văn phòng, nói rằng:

Tôi được giấy mời sáng nay đến về việc nhận lãnh gia tài của chú tôi, và...

Ông trưởng toà hỏi:

Xin lỗi, chắc ông chờ lâu lắm phải không?

Người thừa hưởng gia tài đáp:

Dạ, lâu lắm! Tôi chờ mười sáu năm rồi!

2786




Hai ông tướng ngồi dự tiệc tại tư dinh; nhân lúc trà dư tửu hậu, một ông trổ tài nói:

Trong lần cầm quân có lần tôi đã thoát hiểm một cách thật kỳ lạ. Lúc đó tôi đang đứng trên gò đất chỉ huy, bỗng nghe viên đạn bay vèo tới, tôi vội vàng cúi đầu xuống và thoát chết.

Ông tướng kia cũng nói:

Tôi thì không ở trong trường hợp của bác. Nhưng một hôm tôi đang quan sát trận đánh bằng "Dzuy men" (ống nhòm), thấy bên kia địch có ổ súng máy, nhả đạn liên miên làm quân ta không tiến được, tôi nóng lòng, nên cầm cái "Dzuy men" ném trúng ổ súng máy. Ổ súng đó hết xài và có lẽ cũng vì vậy mà quân của tôi mới thắng...

Người lính đứng gác cửa phòng lắng tai nghe đến đây, quát lớn lên:

Quân sĩ đâu bắt hai ông tướng này lại cho ta!

Hai ông tướng ngơ ngác, lạ lùng, không hiểu làm sao cả. Nhưng ngay lúc đó người lính bước tới đứng thẳng chào và nói:

Thưa hai tướng, nghe hai tướng nói khoác vui quá, tôi cũng xin góp phần đó ạ!...


2869




Cô gái sắp về nhà chồng sụt sịt khóc, hỏi chị dâu:
- Ai bày ra cái trò con gái phải lấy chồng thế này?
- Chu Công. Thế là cô ả cứ nhè Chu Công mà chửi. Sáng hôm sau, về lại mặt, cô nường bẽn lẽn hỏi chị dâu:
- Nhà Chu Công ở đâu?
- Em tìm ông ta làm gì?
- Biếu ông ấy một hũ rượu ngon.
2333




Duyên Phận So Le


     Một bữa gió dầm dề, khách vắng teo, 13 nhân viên khu du lịch văn hóa So Le tổ chức nhậu nhẹt, xong rồi thi coi ai có cuộc đời buồn nhất. Mới biết, dì Chín nấu bếp hồi nào giờ chưa từng biết yêu ai, con Mỵ nghèo, toàn mặc đồ cũ của chị Hai, 18 tuổi mới vung vinh được bộ quần áo của chính mình.

Hường thì yêu thầm nhớ trộm ông thầy dạy toán... Xuyến kể sau cùng, bằng cái giọng hết sức điềm nhiên, cô nói 17 tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha mẹ theo tình. 18 tuổi thằng nọ phụ phàng, bỏ cù bơ cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa...

Mọi người rưng rưng bảo thôi, khỏi kể thêm khúc sau mày cũng xứng đáng là người có cuộc đời buồn nhất ở So Le này rồi. Rồi cả bọn lặng lẽ ngồi nghe gió thốc qua lòng, rúm ró nỗi cô đơn. Trời ơi, thêm một mùa gió đông nữa mà chưa người nào lấy được chồng. Tuyệt vọng như dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hường... và cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi.

Mà ngộ, chỉ Xuyến là không xao động gì hết, lúc gió về. Kể chuyện mình xong, cô đứng dậy, đóng hết các cửa sổ, lau sàn nhà, trải khăn lên bàn, xếp ghế cho ngay ngắn. Ngang qua phòng anh Năm, Xuyến vào coi có quần áo dơ không rồi gom ra sàn nước ngồi giặt, cằn nhằn anh sao để cổ áo thâm kim. Dửng dưng, bởi không còn gì để trông đợi, bởi Khởi đã thật sự không quay lại nữa rồi?

Hay bởi những mùa gió chẳng còn gì để lạ, Xuyến tới đây lúc khu du lịch mới hình thành, giám đốc Thụy hay bảo, Xuyến là bậc “khai quốc công thần” của So Le. Chân bước lên bờ, thấy vợ Thụy đang ẵm con ngơ ngác trước mênh mông hoang vắng, không sợ đã đành, đằng này, Xuyến mừng húm. Cụm nhà nghỉ lọt thỏm cuối bìa rừng. Biển đằng trước. Và gió lộng lồng trên đầu. Ở đây là cuối đất, xóm làng gần nhất cũng cách hai vạt rừng, sau lưng So Le chừng nửa giờ đồng hồ là trung tâm xã, thêm ba giờ để đến huyện, ra tỉnh mất nửa ngày. Tàu đò thường quăng lên khu du lịch những người khách xốc xếch, lử lả đường xa, họ cuống quýt ngắm rừng xanh ngời ngợi trên đầu, luýnh quýnh ngó những con thuyền dập dềnh thăm thẳm đằng phía biển. Nôn nả chạy ra mốc tọa độ chụp hình, hối nhà hàng dọn cơm ra. Vừa ăn vừa coi đồng hồ, tính xem thêm chén nữa thì có kịp chuyến đò trưa không. Vội vậy, nhưng vẻ thỏa mãn hiện lên trên nét mặt, vì chụp được cái hình ngay chỗ panô vẽ chữ mũi So Le tổ bố để về khoe với bạn bè, vì được móc cục đất khóc ồ ồ, ôi giời ơi, đất thiêng của ta ơi, đất thương đất nhớ ơi, sau đấy thì làm thơ.

Bọn Xuyến cố nín cười, thấy lòng vui, dù biết với những du khách này, chẳng thu lợi nhuận gì nhiều. Nhưng có họ cũng đỡ thèm ngươi, đỡ thấy mình giống khỉ. Rồi khu du lịch được vực dậy, bắt đầu từ một nhà hàng thủy tạ ngoài bãi bồi, cụm panô tiểu cảnh, những con đường xi măng giả gỗ ngoằn ngoèo luồn sâu vào rừng... Mũi So Le ngỡ ngàng giụi mắt đón những du khách cười nói bạo liệt, đạp mũi canô lên bến. Họ ở lại lâu, ca hát tưng bừng...

Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn thiu. Khách đến, khách say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương yêu ấp. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thủy tạ ốm tong teo, đen nhẻm, vậy mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.

Chuyện đó cũng đã lâu, nhắc lại, Xuyến cười, quên mất tiêu rồi (giọng như quên cái nón, cái khăn, cây bàn chải đánh răng...). Chiều chiều, nó hay ra cái bến trước quán cà phê nhỏ của vợ chồng giám đốc Thụy, ngó xa theo con rạch loằn ngoằn, vắng ngắt. Như chờ đợi, như mong ngóng, như hy vọng... Nhưng có chờ đến tối chỉ chiếc đò máy chở bé Bi, con gái Thụy, tan trường về ghé lại. Xuyến lên nhà chơi với Bi (hú vía, may mà có con bé nhỏ teo xinh xẻo này). Xuyến nướng tôm cho Bi ăn, thắt mớ tóc xoăn mềm mại của Bi thành bím, Xuyến hỏi con bé bữa nay cô giáo dạy bài gì, rồi lớn nhỏ hai người vỗ tay hát nghêu ngao. Ai, nhìn thấy cảnh ấy cũng thương, Xuyến leo lẻo nói cười, thấy vậy mà không phải vậy.

Mọi người bảo nhau, lòng con nhỏ Xuyến vẫn còn đau. Một bữa thấy Xuyến vào phòng Khởi, thụp xuống vùi mặt vào chiếc áo anh bỏ lại. Một bữa nhìn trời mây nước mênh mông mà đôi mắt ráo hoảnh, trống trơ, nhìn mà không thấy gì hết. Một bữa thấy Xuyến tết tóc cho bé Bi, Xuyến rơi nước mắt.

Một bữa Xuyến bảo anh Năm Già đừng hát cái bài “Lòng dạ đàn bà”, “hồi đó anh Khởi hát hoài, em nghe mắc chán rồi”. Anh Năm vậy a, vậy à, mà trách mình vô ý dữ. 39 tuổi, sớm lấm láp bụi đời nên mặt anh Năm khằn, đen đúa, lưng hơi khom. Hôm tới đây anh vẫn còn là nhân viên hậu đài của đoàn ca múa nhạc. Hết mùa lưu diễn, bữa đó cả đoàn được thưởng một bữa nhậu tại mũi So Le. Ai cũng vui nên say quá chừng, say vùi dẫn cho đến khi một nhân viên của nhà hàng đập cây đàn vào bức tường trước mặt. Những sợi dây đứt bặt buốt nhức giữa tiếng gãy giòn, và trong những sững sờ, cồn cào một tiếng thở thảng thốt. Mắt mở trợn trạo, mặt đỏ bừng, Khởi lia tay vào bàn tiệc (như đang đếm gà, vịt), gằn giọng: “Cô nắm níu ở đây là vì thèm khát thứ người này sao, Xuyến?", xong quay lưng đi một nước.

Xuyến tuyệt vọng ngó theo, rồi cô run rẩy mỉm cười, lẩy bẩy rót rượu cho khách, bảo uống đi mấy anh, không có chuyện gì đâu... Nhưng cuộc vui tới đó đã tàn mất. Khách xuống tàu, anh Năm Già còn đứng trên bến, anh bảo sau này chắc nhà hàng mình thiếu người, tôi ở lại để đàn cho cô hát nghen, cô Hai. Xuyến lắc đầu cười thê thiết: “Anh tính đền cho tôi à... có phải tại anh đâu mà..." nhưng anh Năm đã quả quyết xô mũi tàu ra.

Anh ở lại mũi So Le, làm con khỉ thứ 13, những con khỉ khác cứ hỏi nhau sao chuyện đi ở thằng cha này coi nhẹ hều vậy cà. Anh được phân cho một căn phòng ngó ra hành lang phía sau có nhiều dây phơi, một bữa đang lui cui dọn giường nghe Xuyến mừng rỡ, ngỡ ngàng kêu “Anh Khởi”. Anh quay lại, Xuyến thất vọng bưng mớ quần áo quay đi. Năm "Già" xin được chuyển phòng.

Mỗi chiều Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó, anh nói láp giáp đủ chuyện dưới đất trên trời (như thể mình mà im lặng Xuyến sẽ khóc mất). Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày gạo cá lên giá quá chừng... (ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo).

Có khi Xuyến hụ hợ vài câu, có khi cô chỉ mỉm cười. Ngoài chỗ nói nhiều ra (mà toàn nói chuyện khơi khơi), sao mà anh Năm “Già” giống Khởi kỳ lạ. Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y chang). Đóng cái móc áo trong phòng Xuyến, thay bóng đèn, sửa chốt cửa, nấu tô cháo nóng để đầu giương lúc Xuyến say. Ngày ngày, anh Năm bắc một cái ghế ngoài bàn tiệc, phục vụ việc hát hò cho khách, uống đỡ giùm Xuyến vài ly rượu khi khách mời. Anh còn lấy xuồng chở Xuyến với bé Bi chơi dài trong rạch, hái trái ô rô. Nhiễu khi Bi ngọng nghịu nói cười, thấy thương không chịu được, Xuyến ôm ghì nó, bảo sao mà em mê con nít quá chừng à, anh Năm. Anh cười hỏi sao Xuyến không đi làm cô nuôi trẻ. Xuyến lặng người đi, vì vết thương cũ trong lòng nghe rịn máu.

Khởi cũng có lần hỏi Xuyến câu ấy. Đâu chỉ vậy, nhiều bữa nhìn Xuyến quằn quại vì bị mời rượu say mèm, anh lẳng lặng ra thị xã xin sẵn một chỗ làm rồi hỏi Xuyến có đi với anh không, Xuyến cười, trời đất, đi đâu anh. Khởi bảo, đi làm cô nuôi trẻ, bỏ mũi So Le. Xuyến bần thần một thoáng (nhìn đứa trẻ ấy có một mụn thịt trong vành tay, có một nốt ruồi son đỏ sau gáy, có cái rón to nhăn nhúm buồn cười như cái mặt người, cái rốn 21 ngày mới rụng... như Bi không?). Tần ngần, Xuyến bảo: “Mai mốt nghen anh, bây giờ công chuyện đang rối... Mấy đứa Nga, Hường mới vô làm, công việc chưa rành, khờ ịt, chỗ mình còn xây dựng tùm lum, chẳng ai coi sóc... Đó, bé Bi con anh Thụy bệnh đang nằm ngoài trạm xá hỏng biết chừng nào về...".

Nhớ lại, nhiều lúc Xuyến cười, mấy lý do đó trớt quớt, chẳng ăn nhập gì với mình, hèn chi Khởi cười gằn, bỏ đi. Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền hình). Ở đây 3 năm rồi, bây giờ bỏ rừng, bỏ biển, bỏ cả những cơn gió đông cồn cào mắc dịch này thiệt không đành... Còn nữa nghen, bạn bè ở đây ai nấy đều tốt, vợ chồng giám đốc Thụy cũng thấy thương quá chừng, tóc sắp bạc màu mới kiếm được đứa con, chắc là hiếm muộn, chắc là chờ đợi, chắc là chữa trị rất tốn tiền. Em biết họ từ hồi họ còn ở chợ, trước nhà có một hàng điệp đỏ, mùa nắng lá rụng tả tơi, lá xếp dày, nằm lên đấy không sợ bụi đất...

Những lời hay ho đó, Xuyến học thuộc lòng, định nói vào cái ngày anh Năm mở lời biểu Xuyến theo anh. Một bữa hai người chơi thả tàu giấy dưới bãi với Bi, anh Năm nhìn Xuyến thật lâu, trìu mến nhìn chị em vung vinh thách nhau thuyền nào đi trước, cắn môi mấy cái; nhìn trước nhìn sau (như sắp truyền tin cho nhau giống trong phim Biệt động Sài Gòn), anh bảo: "Cô Xuyến mê con nít vậy, sinh cho tôi một đứa nghen". Hôm đó trời đứng gió, Xuyến nghe con ong o e trên ngọn đước, nghe mình rỗng không, nghe tim nín thít (và bần thần tự hỏi, đứa trẻ mình sẽ sinh với anh có cái ngón chân út quẹo đơ, có những sợi lông măng dày mịt che cả bớt đen sau cổ như con bé Bi xinh xẻo này không). Xuyến cười lạt nhách, lấy tay phát nước đẩy chiếc tàu giấy đi, Xuyến bảo, em chưa tính tới anh à. Anh Năm cũng cười, nhìn con tàu trắng trôi xa, từ từ mù mịt, bẽ bàng nghĩ, dường như Xuyến không quên được một người.

Sáng sau, anh Năm từ giã mũi So Le. Mọi người kêu trời, sao cha nội này đi ở đơn giản vậy kìa. Tiễn anh vòng vèo qua những con đường nhỏ trong rừng, ai cũng nghe tiếc, nghe đau, nói gièm với nhau (cốt để anh Năm nghe thấy), khu du lịch mình bộ khai trương ngay ngày xấu, hồi đó tới giờ không tổ chức được một đám cưới nào. Xuyến đi sau cuối, chân bời rời bước, anh Năm tần ngần hỏi: “Cô Xuyến có chuyện gì nói với tôi không?". Xuyến ngơ ngác một lát rồi cười, dạ, anh đi mạnh giỏi.

Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi. Mọi người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo, mai mốt cũng quên (như quên đôi dép, đôi giày... Và như quên Khởi). Rồi Xuyến đi gom khăn trải bàn, cuốn tất cả các bức màn, đem giặt. Nhưng vừa rảnh tay, Xuyến đã nghe buồn anh cõng buồn em đi lê thê trong dạ, cô dựa lưng vào tường, những vuông vải phơi trên đầu cồn cào, oằn oại, tơi tả gió. Xuyến ngồi ở đó, ngó nắng, bỗng thèm có con bé Bi ở cạnh, để khóc với nó chơi, để đi qua niềm đau đang như bão bời.

Để thấy đời có buồn thêm chút đỉnh, cũng không sao. Như thế này thì nhằm nhò gì cái hồi Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được đi lại (chầm chậm) trên khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lúm cúm trong nhà. Bi biết đi, mẹ dắt ra sân, Xuyến giả đò lại gần khen, em bé dễ thương quá hen, mà không dám xiết chặt Bi vào lòng, áp mặt mình lên đôi má phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc. Bữa kia mới buồn ác, thấy Bi lon ton chơi mình ngoài sân, bỗng không kềm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy... Xuyến đưa Bi quay lai. Nhưng khuya, ngủ không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẫm chỗ đất cạnh góc điệp già (chỗ đó, có một sáng đôi vợ chồng nọ mở cửa ra, thấy một đứa bé đang nằm say ngủ).

Mấy chuyện này may mà Xuyến giấu chặt trong lòng, phải kể ra chắc là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái mũi So Le nhỏ nhoi này.





Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư

54


Powered by Blogger.