Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến

Hoàng Nhuận Cầm

Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cành tàn, ba cánh sắp sửa rơi

Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Hót lên! dù đau xót một lần thôi.

Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa.

Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi...
39




Nhà sắp có khách, bà vợ hách dịch hỏi ông chồng:
- Ông định mặc quần đùi để tiếp khách hay sao?
- Tôi muốn để mọi người đều biết, bà đã nuôi tôi thế nào!
- ông chồng hậm hực.
- Nếu vậy
- bà vợ nói
- ông hãy cởi nốt cả quần đùi ra, cho họ biết là ông có đáng để nuôi không?
2244




Hai cha con người hát xẩm mới hơn bẩy giờ sáng đã đang
hát ở ngã ba Cửa Nam.

Hôm nay là ngày gì mà đông thế cha nhỉ ? Cậu con trai 13 tuổi đang dắt ông bố già bị mù lần đi từng bước chậm chạp bên các quầy bán hoa.
..." Ờ...ờ...,...ngày lễ... tháng ba!.... cách đây hơn mười năm , cũng ngày này cha đã dành dụm bao ngày... để mua tặng mẹ con một bông hoa
' SIM " bằng nhựa.Mẹ con hôm đó trông thật hạnh phúc !
Mẹ con , hai tay đỡ lấy nhành hoa dại từ tay cha! rồi hôn nhẹ lên vết sẹo nơi trán cha đây.

Mấy ngày sau mẹ con mất!.Khi ấy con mới được gần hai tuổi.
Tối...tối , về góc trọ tối tăm, không chút ánh sáng gì ! Cha ôm con chặt trong lòng.....cha đã khóc mẹ con nhiều lắm !!!.
..... Một sớm mai, khi thức dậy , cha không nhìn thấy gì nữa con ạ ! chỉ nghe tiếng con khóc...vì đói...rét ! mà cha không làm gì được hơn !" - Người cha giọng yếu ớt trả lời thằng bé.
Ông xẩm dặn con :" Ngày này , con nhớ đi lại từ từ... thôi !
đừng có va quệt vào các quý ông , quý bà !...cũng không được mở miệng... xin gì nghe con !!!.
Cha đàn, con cứ... hát đi ! thế thôi , rồi lại chờ đợi , lại đi !.Tối...về góc trọ -Ông bố yếu ớt nói, hai chân ông lần ..bước một- theo chiếc dây buộc ngang bụng cậu con trai...đang lảo đảo bên đường, giọng nó hát ...thật yếu ớt !.
Một nhóm thanh niên ăn mặc sang trọng bước xuống từ hai chiếc xe Meecedes đời mới của đức. Họ đi lại bên một hàng hoa gần đó.Mỗi chàng chọn một bông hoa phong lan dài, cong cong thật đẹp. Cô chủ hàng hoa đon đả đỡ lấy , nót phía dưới một tàu vạn tuế xanh sẫm ,thêm vài chiếc lá măng, một lớp giấy bóng trong suốt đõ lớp ngoài cùng - Trông như chiếc lá non khổng lồ dị dạng !!!.

Đứa con trai của người hát xẩm đọc bài thơ gì đó, ông xẩm mù đệm đàn:

"Sớm nay là tết
Của các nàng tiên!
Chú chẳng tiếc tiền!
Cho đôi mắt đẹp !!!!!!!".

Một chàng nói "Thằng này thế mà giỏi ! nhưng ta còn đang bận".Anh ta bước đến chỗ trả tiền: -" Hết bao nhiêu !???"-Giọng chàng thanh niên, mặc bộ comlê đen sần, chân đi giầy da đen, chiếc calavát đỏ trước ngực trông sặc sỡ làm sao ! in trên nền phông màu trắng của lớp áo trong ! tóc bóng mượt , vuốt ngược về phía sau.
"
...... Dạ...dạ...!, tất cả 7 bó hết 900 ngàn ạ !!!."- Cô chủ hàng đầu hơi cúi xuống trả lời.Chàng thanh niên rút 10 tờ loại 100 ngàn đồng , ném xuống chiếc bàn nhựa bên cạnh ! Những đồng tiền xếp thành vòng tròn...hệt như bông hoa bất tử !!!.-" Rõ điệu nghệ !...mấy ông này chơi bài tây sành lắm!" - Hình như mẹ cô gái hàng hoa, đứng phía trong - nói như chẳng cho ai...!.
Họ lặng lẽ lên xe... như lúc xuất hiên vậy ! -...Chiếc xe đi mà chẳng để lại chút khói đen!, khói trắng ! gì cả... phía sau! Mà có mùi thơm thơm , ngạt ngạt trong không khí.
- Cha ơi !, con chỉ thấy... như 2 con mèo đen nhẹ nhàng lao vút
về hướng bờ hồ - không nghe thấy gì cả...là sao cha ???!- thằng bé hỏi cha nó.
Từ trước tới giờ.... con!..con...mới thấy những chiếc xe như thế này ở thủ đô đấy cha ạ !.
Cậu con trai thả trùng sợi dây dẫn đường cho cha nó !, nó lại gần phía ông xẩm... đang khư khư ôm chiếc đàn ghi ta đã sờn tróc... hết màu véc ni , chỉ còn lại màu thâm lâu loang lổ của thớ gỗ , có vài vệt vân tròn - như sóng nước - trên mặt ao lặng gió...được đứa trẻ ném viên sỏi xuống ao vậy !.

Hai cha con người hát xẩm đến bên gốc cây phượng đầu phố Yết Kiêu.Ông xẩm bảo cậu con - dắt ông đứng gọn vào sát ven hàng rào sắt phía cổng trường mỹ thuật , cho ông nghỉ một quãng... rồi đi tiếp !... Đi đâu nữa?!.
Ông xẩm hỏi con :" Đã được chút hảo tâm gì chưa con?!!!"
-...Chưa...cha ạ !nhưng chắc tới chiều sẽ có !... cha ơi !
..... con đói quá rồi !
-Cả ngày hôm qua... tới giờ , con cùng cha mới ăn một chiếc bánh mỳ nhỏ thôi !".
Cậu bé thò tay kéo chiếc quần cộc... đã rách 2 lỗ ở mông đít... cho khỏi tụt !!!., một tay dắt ông xẩm lại ven hè , sát gốc cây phượng già bên hàng rào sắt đã hoen rỉ.
Thằng bé bảo ông xẩm mù !:" Cha này !lúc nãy các ông đi trên hai chiếc xe đẹp bóng , đen xì.. rồi mua 7 bó hoa - mà con thấy người nọ ! ném xuống bàn những 10 tờ bạc màu nâu... nâu... trắng, toàn những số 1 đứng trước hàng thôi !... thế là sao hở cha?!!!
-Ông xẩm nói :" ...Cha còn nghe rõ giọng cô bán hàng trả lời ông ấy... những 900 ngàn...7 bó hoa kia !Chắc ông ấy hảo tâm... tặng cô hàng bán hoa thêm 100 ngàn!-con nhỉ , với hảo tâm đó, ở chốn đây !, chắc cha con ta... cũng sống thêm được quá 2 tháng đó con !!!."
-Chị bán hàng rong , đi ngang qua ! , đã bỏ vào chiếc mũ trên tay thằng bé 500 đồng.
Nó cúi đầu " Con cảm ơn dì !". Ông xẩm sờ... sờ... bàn tay - gầy như thanh củi khô vào lòng chiếc mũ vải đã rách vài miếng của cậu con..
...Đường xá dạo này... lắm bụi quá!, chị hàng rong , dụi dụi mắt...vội vã bước đi !!!.
- Ông xẩm lẩm bẩm:" Thật không thể hiểu hết... vòng đời ! nhìn thực rõ cả mà không hiểu gì ?.
.....Chỉ có người nghèo mới thương những kẻ...cùng khổ thế này thôi !? ! ".
Hai cha con ông xẩm lại đi.................................................!
Bóng nắng chiều nhợt nhạt để lại trên đường Lý Thái Tổ... hai chiếc bóng...mờ...mờ ! đang năn về cuối phố !!!.

Gần tối ,hai cha con người hát xẩm mới lần về được cái xóm trọ rách nát - Góc chiếc nhà hoang , bên cạnh có mấy thùng rác công cộng... Đầy ắp những bông hoa rập , gãy - thâm héo ! một thứ nước màu đen đang chảy thành vệt nhỏ, từ đáy thùng rác ! một mùi... chua chua ,...hăng hắc... đã làm tôi chóng mặt !.

Thằng bé nói:"...Mới từ sớm , mà bao nhiêu tiền trong đó...đang thối rữa hết cha à ! , vài ngày nữa , nó sẽ thành đất mùn ven đường hết thôi !.Nó đang đau lắm !phải không cha ?.
-... Ông xẩm không nói gì , ông thở thật mệt nhọc ! - thằng bé cố kéo chiếc liếp để che cửa xó trọ.bố nó đang sờ soạng...chui vào trong ! - lũ chuột đùa nghịch từ sớm, tới giờ !... thấy động , mỗi con chạy một nơi. Nó thấy mùi quen ! Cha con ông xẩm đã trở về.

Ba thằng choai choai , cởi trần - trên mình chúng săm - vẽ nhiều hình quái dị , mặc quần soóc có hàng chục chiếc túi...to nhỏ lủng lẳng ! Chúng chắp tay ở sườn - đứng choãi chân , mồm ngậm thuốc lá , ngửa mặt nhìn trời !.
Một thằng đầu trụi như sư chùa Quán Sứ - " à hèm" một tiếng !. Thằng bé con ông xẩm rón rén...chui ra -đặt vào tay thằng đầu trọc 4 tờ bạc 500 đồng... run rẩy:"....Cả ngày hôm nay , cha con cháu... chỉ được 3000 đồng thôi ! ...các chú cho cha con cháu giữ lại một ngàn để sống !
Từ tối hôm qua tới giờ, cha con cháu chưa có gì trong bụng cả !!!".
Nó đút tiền vào túi , chửi đổng một câu -" Mẹ kiếp, súi cả ngày rồi ! Cái ngày này là khốn... nạn nhất trong năm !!!".

Ba thằng lững thững rẽ vào công viên Bách Thảo từ lúc nào - mà thằng bé đứng đó như bị thôi miên !.
Tiếng rao "Ai..mỳ...đơi ! Mỳ nóng ròn...đơi " làm nó sực tỉnh.
Nó vội vã .... Có... có !,.......... thật vô hồn !!!.
Nó lần lần tay vào bẹn quần... lấy ra 2 tờ 500 đồng , đưa cho người bán bánh mỳ. Anh ta lật chiếc bao tải rách, đậy phía trên chiếc sọt , thó tay vào...lấy ra 2 chiếc bánh mỳ to loại 1000 đồng một chiếc đưa cho thằng bé ! Nó...rụt tay lại ,lắp bắp "...cháu chỉ có...có một chiếc thôi !???.
- "Cầm lấy " , hôm nay tao...kiếm được , hên hơn hôm qua...
Thôi... cầm lấy...vào đi em !."

Thằng con ông xẩm , cầm trong tay 2 chiếc bánh còn đang nong nóng...Mắt nó sáng lên !!!

Người bán bánh mỳ, nhảy lên chiếc xe đạp cũ kỹ ! thả xuôi dốc Ngọc Hà. Tiếng " suỵt...suỵt " của chiếc phanh chân bằng lốp cao su gắn trên bánh trước chiếc xe đạp người bán bánh...Tôi thấy rờn rợn !.
......." Ai mỳ đơi !....mỳ nóng ròn.... đơi " - Xa xa vọng lại.

Tối đó ! Hai cha con người hát xẩm được một bữa no.

Chẳng biết đến bao giờ , cha con nó mới có đủ tiền - Để thằng bé thưc hiện cái ước mơ bấy lâu nay của nó : "... Cha con mình sẽ dành dụm tiền để mua một con mèo ! , cho lũ chuột ở đây - Có anh có em ! Cho vui nhà mỗi khi tết về - Cha nhé !".


Nguyễn Đức Hạ Huy.1663




Anh đừng hỏi vì sao em không nói
Những buổi chiều gặp gỡ giữa thành đô
Lòng xót xa mà mắt vẫn hững hờ
Em yên lặng để khỏi thành tiếng khóc
Đừng nhắc nhở những ngày xưa đi học
Chuyện chúng mình hai kẻ mới yêu nhau
Để hôm nay em ươm áng thơ sầu
Mơ bóng cũ trở về thành hiện tại
Buổi sơ giao em vô cùng ngây dại
Quá vụng về nên sớm nếm chua cay
Kỷ niệm xưa còn vương ý thu gầy
Em ướp chuyện chúng mình thành dư ảnh
Trời không gió mà lòng nghe lành lạnh
Nét thơ ngây tàn héo thuở anh đi
Trót yêu nhau nhưng vẫn cứ kiêu kỳ
Làm sám hối vẫn không là lời nói
Mười sáu trôi qua ân tình muôn lối
Yêu rất nhiều xét lại vẫn là anh
Cợt yêu đương và thề chẳng trung thành
Em lãng mạn ươm tơ tình khắp nẻo
Đừng trách móc có thiên thần mách lẻo
Rằng yêu anh em vẫn muốn trả thù
Hờn dỗi đời bằng câu chuyện riêng tư

1489




Dưới đây là 15 luật... nhà được soạn thảo nhằm đảm bảo "công bằng" giữa vợ và chồng:


1. Luật trong nước: Nhất vợ, nhì chồng.

2. Luật báo chí: Vợ thoái mái tự do ngôn luận.

3. Luật ngân sách: Chồng không thể là người giữ chìa khoá... két ngay cả khi vợ vắng nhà vài ngày.

4. Luật hành chính: Nghiêm cấm mọi thủ đoạn chiếm đoạt quyền vợ.

5. Luật lao động: Người cho con bú, người rửa chén.

6. Luật thương mại: Mọi sự mua bán phải trình vợ duyệt.

7. Luật doanh nghiệp: Tất cả những hợp đồng đã ký kết với vợ phải thi hành triệt để.

8. Luật hình sự: Cấm hành sự khi vợ chưa nói ứ... ừ... ư.

9. Luật kinh tế: Nhà có thiếu gạo, nhưng vợ không thể không có thêm bộ quần áo mới trong 3 tháng.

10. Luật tài chính: Chỉ có vợ mới được phép xài tiền.

11. Luật gia đình: Nghiêm cấm mọi hành vi đánh lại vợ.

12. Luật giáo dục: Vợ kêu chồng phải "Dạ, thưa bà con đây".

13. Luật bản quyền: Tác giả của cái bầu là ông, còn sản xuất hay không là quyền của bà.

14. Luật cư trú: Nếu xảy ra chiến sự thì chồng phải là người "di cư".

15. Luật cung cầu: Chồng lúc nào cũng phải đảm bảo "cung" theo yêu "cầu" của vợ.

16. Luật thuế: Trước khi đi công tác xa, chồng phải đóng thuế đầy đủ cho vợ. Có như vậy các ông mới không "còn sức" đẻ loạng quạng với bồ nhí bên ngoài.

Khi nào có bổ sung thì vợ sẽ thông báo sau vì vợ là người làm luật ...

1442




Một cô gái vừa xuống xe buýt đã làm cho tất cả mọi người chú ý vì cách ăn mặc quá là táo bạo: Một bên tà áo vén cao, để lộ nguyên cả "ngọn núi lửa" sắp phun trào. Không ai dám nói gì, cuối cùng một cảnh sát can đảm tiến đến nhắc cô gái:
- Thưa cô, cô rất đẹp và thời trang của cô không hề che dấu điều đó, nhưng cô quên mất một điều là... Nghe đến đây, cô gái nhìn vội xuống ngực mình và bỗng hét thất thanh:
- Thôi chết! Tôi quên thằng cu trên xe buýt rồi!
2323




Mối tình năm cũ


     Đoàn làm phim tài liệu về nhà báo liệt sĩ Nguyễn Thọ tạm trú ở trụ sở ấp văn hóa. Họ đã ở lại Mỹ Hưng thêm năm ngày, nhưng vẫn chưa mời được dì Thấm tham gia. Trần Hưng, tác giả kiêm đạo diễn phim, vốn là người kỹ tính, cầu toàn, anh bảo, làm phim Nguyễn Thọ mà không quay được chân dung người yêu ông, mối tình năm cũ của ông thì thà ở nhà chăn heo cho vợ còn sướng hơn. Nên cả đoàn phải nán chờ trong căn nhà bỏ phế bấy lâu, đất nền bị heo ủi lục cục lòn hòn, bìm bìm leo xanh rờn một bên rèm cửa. Mấy ông già trong xóm lại thấy cảnh tình nheo nhóc, thở dài, tụi bây ở lì vậy không biết có ăn thua gì hôn đây, thằng Mười - chồng con Thấm - tánh tình khó khăn, ngang ngược, hổng giống ai...

Nên chỉ con người này thản nhiên khi thấy đài truyền hình Xê Tê tới, thản nhiên biểu vợ từ chối. Ngoài ông Mười ra, ở đây, ai cũng muốn được vô phim để kể về một Nguyễn Thọ anh dũng, tài hoa, đứa con thương nhớ của vùng đất Mỹ Hưng này, cho nói chút xíu thôi cũng được. Với Nguyễn Thọ thì làm phim nhiều tập mới xứng, nhóc chuyện. Hai mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông già bà già đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm sống, có bộ đồ nhuộm pin đèn mặc chết bỏ luôn. Mấy ông bạn cùng tổ công tác vừa đọc truyện Mối tình nho nhỏ của Nguyễn Thọ vừa khóc, “Hỏng có nhà văn nào được như nó, viết truyện ngắn mà ai cũng mê, thuộc lòng như bài ca cải lương, đám cưới, đám giỗ, đám ma đều đem ra làm văn nghệ được hết”. Có ông khóc tồ tồ, “Cuống rún thằng Thọ còn chôn ở đất này mà tụi ác ôn không biết đã thủ tiêu xương cốt nó ở đâu?”. Trần Hưng rất hài lòng với những đoạn phim vừa thu được, nó nổi bật lên phần đời của người chiến sĩ này, giản dị mà cao quý, bình thường mà phi thường. Và chỉ thiếu một câu chuyện tình nữa thôi, một chân dung nữa thôi, bộ phim sẽ sâu sắc, xúc động lắm. Chỉ cần dì Thấm thôi.

Nhưng đã cầu cứu chính quyền, thằng Thảo từ bên ngoại dong về năn nỉ má nó, lớp trưởng bối ở xóm cũng lại bảo, “Thằng Mười mày cho con Thấm nó đi một lần nữa thôi. Chuyện làm phim phiếc này nọ coi vậy cũng là làm việc nước” nhưng ông Mười vẫn nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi. Mấy ông già dội ra, chống gậy te te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy, cái miệng rộng vậy mà ích kỷ, hẹp hòi. Nó không cho con Thấm đi chắc tại ghen chớ gì. Thằng Thọ chết ngắc rồi mà còn ghen.

Bảy năm trước, lúc ông Mười đem hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi dì Thấm đi đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông viết sử của tỉnh kêu trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải chi còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất (mặc dù chưa ai được xem Nguyễn Thọ viết ra làm sao). Nhưng thư đã thành tro rồi, ông Mười nói ông không cần biết chuyện giữ gìn bút tích của Nguyễn Thọ để làm tư liệu lịch sử, lưu lại cho thế hệ mai sau gì hết, ông thấy chướng mắt nên đốt, có bậy thì đem ông bỏ tù đi.

Nhưng có ai bị bỏ tù với lý do lãng xẹt như vậy đâu. Chỉ thằng Thảo, con của dì Thấm và Nguyễn Thọ, là buồn lòng, bỏ về ngoại ở. Dì Út Thía không chồng ôm đứa cháu nhỏ vô lòng, biểu mai mốt lớn rồi cháu hiểu. Có gì mà phải đợi lớn, hồi đó tới giờ, thằng Thảo có chọi chết gà nhà nào, có bẻ trộm trái ở vườn ai, bà con đều xuề xòa bỏ qua, nó là con Nguyễn Thọ mà, tội nghiệp... Họ còn bảo ở ngoài tỉnh nhiều đứa cậy ông cha mình có công còn làm chuyện bậy dữ hơn nữa kìa... Chỉ có ông Mười là răn đe, dạy dỗ, ghìm nó như ghìm con ngựa bất kham. Thằng Thảo trở nên đàng hoàng, tử tế, nhưng gặp bất cứ chuyện gì, trong lòng nó cũng có vết tì, tại mình hỏng phải là con ruột của ổng... lâu ngày, ý nghĩ ấy đầy như nước lên tròm trèm trên mặt đập. Và khi ông Mười ngồi dựa cái cà ràng đốt xấp thơ của ba Thọ, nước đã vỡ bờ, nó lầm lì xếp hai cái quần cụt với mấy cái áo bỏ xuống bến đón tàu. Dì Thấm không thể giữ nó lại. Ông Mười lặng lẽ ngồi đốt thuốc, ngó cái lưng tôm của thằng Thảo dưới bến, lòng trĩu như đeo đá. Ông thương nó bằng chang con ruột ông đó chớ. Bây giờ nó không hiểu, chừng nào nó lớn, yêu thương ai đó, nó sẽ biết mà. Thằng Thảo đi rồi, nhà thành ra nặng nề, dì Thấm, người hiểu ông Mười nhất cũng giận, không thèm nói chuyện, có gọi thì cũng trổng không.

Chuyện nguôi nguôi đi, nhà vẫn buồn, nhưng ông Mười không đau lòng như những bữa từ ngoài ruộng về, ông nhìn thấy vợ cầm xấp thư ở góc nhà, ngồi khóc lặng. Ông thương vợ, cứ nhớ hoài vầy thì đời được mấy ngày vui. Ông đem thư đi giấu trong kẹt bồ lúa, dì vẫn tìm ra, vẫn những bữa đi đâu xa về, dượng thấy đôi mắt vợ mình sưng húp. Buộc lòng ông đem thư đi đốt. Chỉ còn cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư lự như những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi.

Cả đời, ông chỉ mong người trong nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ. Với cái tánh lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng chậm rãi, huỡn đãi, thật khó để bộc bạch mình trước người. Về Mỹ Hưng với dì Thấm từ sau giải phóng, ông chưa cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảnh ruộng miếng vườn, cho bốn đứa con vừa chung vừa riêng nhưng đất quê vợ mãi mãi không yêu ông như một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy người yêu duy nhất của Nguyễn Thọ làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lưng với quá khứ sao ?) và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ con của Nguyễn Thọ phải được nâng niu, chiều chuộng). Mặt mày thì đen sì, không biết vui hay buồn, già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ. Ông Mười nghe, buồn quá mà cười.

Ngay bữa đầu Hưng đến, vừa bảo làm phim về Nguyễn Thọ ông Mười đã chụp cái nón lá lên đầu, bảo phải đi cưa củi. Hưng nấn ná lại với dì Thấm, hỏi dì có ngại không khi kể một chút về Nguyễn Thọ, đoạn56




Một ông già ra hiệu bán thuốc mua Viagra. Ông già nói với dược sĩ: "Làm ơn bán cho tôi một viên Viagra, nhưng bẻ thành bốn phần đều nhau giúp tôi".


Cô dược sĩ ân cần giải thích:

- Tôi khuyên ông nên dùng đúng liều, chứ uống 1/4 thì chẳng có tác dụng gì đâu.

- Tôi uống Viagra không phải vì tác dụng quảng cáo của nó. Tôi chỉ muốn đi toilet không bị ướt mũi giày mà thôi

1225




Một ông chồng trên giường hấp hối, gọi vợ đến bên mình và hỏi:
- Em ơi, anh không còn sống được nữa. Em hãy nói thật cho anh, trong suốt thời gian chúng mình chung sống với nhau, em đã phản bội anh bao nhiêu lần? Chị vợ không nói gì, chỉ khóc nức nở. Ông chồng lại hỏi :
- Thôi, em đã không muốn nói thì hãy giải thích cho anh tại sao trong tủ của em có 3 quả trứng và 300 USD? Chị vợ thút thít :
- Mỗi lần em phản bội anh, em lại cho vào tủ một quả trứng. Ông chồng thở phào:
- À, thế là chỉ có 3 lần thôi ư? Còn 300 USD thì sao? Lần này, chị vợ khóc rất to và giải thích:
- Mỗi lần trứng nhiều quá, em lại đem ra chợ bán và... em đã tiết kiệm được 300 USD. Nghe đến đó, ông chồng kêu to lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.
2346




Thầy giáo viết lên bảng câu: "Người đàn ông lang thang đã chết đói!". Rồi quay lại hỏi học sinh:

- Này Pitơ, em cho thầy biết, trong câu này, chủ ngữ ở đâu?

- Ơ... Có lẽ dưới mồ ạ! - Pitơ trả lời, giọng không chắc lắm.



o O o


Ông nói với cháu:

- Này cháu, ông nghe nói cô giáo đã phải mời bố cháu đến lớp để phàn nàn về hành vi của cháu, đúng không?

- Đúng ạ, nhưng sau đó cô giáo lại mời mẹ cháu đến để phàn nàn về hành vi của bố cháu.952




Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:

- Đi ra! Để người ta bán, đừng có hãm tài.

- Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.

Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Đà Nẵng.

- Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Đây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!

Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:

- Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!

Thương hại lão, tôi gợi chuyện:

- Thế bà Xuân người như thế nào?

- Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.

Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:

- ồ ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Để tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?

- Cô ấy thua tui một tuổi?

Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố... náo loạn.

- Thế thì "cố" chứ "cô" gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.

- Mà cố Xuân là gì của lão? - Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.

- Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.

- Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?

- Vâng.

- Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! - Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:

- Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?

- Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.

Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.

- Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. - Đột ngột lão góp ý.

- Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.

- Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.

- Mở đầu được đấy ! Mần ly rượu nói tiếp đi!

Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó... Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món “hương nhục” đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó. bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...

- Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này - bà chủ lên tiếng - Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...

Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là "lão Tầm Xuân". Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão:

“Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”.

Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”

- Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật - Hứng chí lão khoe.

- Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.

Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:

- Lần này "dỏm" không đó?

- Dỏm 50%. 50% có thể thật. Đứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.

Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...

Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: "Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!". Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố. Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc "gặp" ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: "Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh".

Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau v238




Thành Thất La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông.

Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược: "Hãy tưởng niệm Phật Ðà, hãy từ bi thương người, sốt sắng cứu người". Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng của ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung Ðức Phật và lời Ngài dạy. Ðêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung. Ông nghĩ:

"Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ". Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo: "Vì tưởng nhớ Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi". Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của Ðức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: "NAM MÔ PHẬT ÐÀ" (kính lễ đấng Giác Ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Phật ông thuật lại rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, Ðức Phật mỉm cười hiền từ bảo: "Phải! Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó".

Thân làm việc ích lợi
Miệng nói điều phải
Ý nghĩ những sự tốt đẹp
Như thế là niệm Phật


Hết
511


Powered by Blogger.