Em đội mưa
Đi hết con đường
Có chiều dài bằng
Khoảng cách trái tim
Của hai chúng ta
Em đi mãi
Nhưng số đo
Vẫn là con số cũ
Khoảng cách này không dài thêm
Nhưng tại sao em không đến được
Có lẽ đôi chân quá chậm 
Hay mình mất nhau rồi
Cũng bởi
Hai ngọn gió ngược chiều
Mà chẳng chạm vào nhau  
Em lại đội mưa
Mải miết đi tìm
Trời vào thu
Ông trời càng cay nghiệt
Biết em đang rút ngắn con đường
Mà cứ để nó dài thêm

960




Bình luận viên bóng đá kênh truyền hình huyện X:

- Các bạn khán giả truyền hình thân mến, bây giờ mời các bạn đón xem trận tranh Siêu cúp giữa Chelsea và Liverpool. Đây là trận phát lại, nhưng để tăng phần hồi hộp chúng tôi sẽ không thông báo trước tỉ số. Chỉ xin bật mí với các bạn rằng đến phút thứ 80 của trận đấu, cầu thủ Crouch đã đánh đầu nâng tỉ số lên 2-1 và đây là kết quả giúp Liverpool vô địch Siêu cúp 2006.
1318





Có những món quà thật đơn giản nhưng chứa đựng biết bao nhiêu chân tình. Tôi biết một chàng trai đã gấp 1000 con hạc giấy tặng người anh yêu. Mặc dù lúc đó anh chỉ là một nhân viên quèn trong công ty, tương lai chẳng có vẻ gì xán lạn nhưng họ vẫn luôn hạnh phúc bên nhau. Rồi cho đến một hôm người yêu của anh nói rằng nàng sẽ đi Paris, sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại anh nữa . Nàng rất lấy làm tiếc nhưng rồi nỗi đau của chàng sẽ trở thành dĩ vãng. Hãy để cho nó ngủ yên trong ký ức của mỗi người.

Chàng trai đồng ý nhưng trái tim tan nát. Anh lao vào làm việc quên cả ngày đêm, cuối cùng anh đã thành lập được công ty của riêng mình. Nó không chỉ giúp anh vươn đến những điều trước đây vì thiếu nó mà người yêu đã rời bỏ anh, mà còn giúp anh xua đuổi ra khỏi tâm trí mình một điều gì đó của tháng ngày xưa cũ.

Một ngày mưa tầm tã, trong lúc lái xe, chàng trai tình cờ trông thấy một đôi vợ chồng già cùng che chung một chiếc ô đi trên hè phố. Chiếc ô không đủ sức che cho họ giữa trời mưa gió. Chàng trai nhận ra đó chính là cha mẹ của cô gái ngày xưa. Tình cảm trước đây anh dành cho họ dường như sống lại. Anh chạy xe cạnh đôi vợ chồng già với mong muốn họ nhận ra anh. Anh muốn họ thấy rằng anh bây giờ không còn như xưa, rằng bây giờ anh đã có thể tự mình tạo dựng một công ty riêng, đã có thể ngồi trong một chiếc xe hơi sang trọng. Vâng, chính anh, chính người mà trước đây con gái họ đã từ chối đã làm được điều đó. Đôi vợ chồng cứ lầm lũi bước chậm rãi về phía nghĩa trang. Vội vàng, anh bước ra khỏi xe và đuổi theo họ. Và anh đã gặp lại người xưa của mình, vẫn với nụ cười dịu dàng, đằm thắm nàng từng đem đến cho anh, như thể thời gian không bao giờ làm thay đổi nụ cười ấy, đang dịu dàng nhìn anh từ bức chân dung trên bia mộ. Cạnh cô là món quà của anh, những con hạc giấy ngày nào. Đến lúc này anh mới biết một sự thật: nàng đã không hề đi Paris. Nàng đã mắc một căn bệnh ung thư và không thể qua khỏi. Nàng đã luôn tin rằng một ngày nào đó anh sẽ làm được nhiều việc, anh sẽ còn tiến rất xa trên bước đường công danh. Và nàng không muốn là vật cản bước chân anh đến tương lai của mình. Vì vậy nàng quyết định xa anh. Nàng mong ước cha mẹ sẽ dặt những con hạc giấy lên mộ nàng, để một ngày nào đó khi số phận đưa anh đến gặp nàng một lần nữa, anh có thể đem chúng về bầu bạn.

Chàng trai bật khóc.

Chúng ta cũng vậy, như chàng trai kia, cũng chỉ nhận ra giá trị lớn lao về sự có mặt của một người mà cuộc đời đã ban tặng cho cuộc sống của chúng ta khi một sáng mai thức giấc, người ấy đã không còn bên ta nữa. Chỉ bởi vì họ đã chẳng yêu bạn như cách mà bạn mong đợi ở họ. Nhưng điều này không có nghĩa rằng họ không dâng hiến tình yêu của họ cho bạn bằng tất cả những gì họ có. Một khi bạn đã yêu, bạn sẽ mãi mãi yêu . Những gì trong tâm trí bạn có thể sẽ ra đi, nhưng những gì trong tim bạn thì mãi mãi ở lại.

Trong tình yêu chẳng có gì tồi tệ hơn để nhớ thương một người là ngồi cạnh họ và lo sợ rằng sẽ mất họ.

1469






Hai ngừơi điên cùng đi xe đạp dạo chơi. Dọc đường xe của người điên số 1 bể bánh sau. Hắn ngừng lại, thay vì vá ruột xe, lại mở cái yên kéo lên cao vừa nói:

Cái yên này thấp quá, ngồi không được.

Điên số 2 dừng chờ, thấy vậy liền gỡ cái yên xe mình và cái tay lái ra, gắn tay lái chỗ cái yên và cái yên chỗ tay lái vừa nói:

Thôi, ta trở về nhà! Không đi chơi với thằng điên quá nặng này nữa!

2836




Trước khi làm một việc gì
Phải nghĩ đến kết quả của nó.


Thuở nước Vua Lưu Ly vì thù hiềm dòng họ Thích Ca mới cử binh mà sang đánh nước Ca Tỳ La Vệ. Bắt được một nhóm thiếu nữ quyến thuộc của Phật, quân lính vua Lưu Ly toan hãm hiếp. Các người này cương quyết thà chịu chết chớ không để mất trinh tiết. Không được thỏa mãn thú tánh của mình, quân giặc liền đuổi xua tất cả thiếu nữ ra đồng đánh đập một cách tàn ác, đến khi các người ấy ngã gục mới chịu bỏ đi. Sau khi tỉnh hồn lại, các cô thiếu nữ đồng nhau một chí hướng tìm chỗ ẩn tu. Trong lúc đi lang thang giữa đồng hoang, bỗng đâu các cô gặp bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni đi khất thực về. Các cô mừng rỡ đón chào bà và kể hết nỗi khổ đau để cầu xin theo bà xuất gia học đạo.

Ðộng lòng từ bi, bà Hoa Sắc Tỳ khoe ni thâu nhận các cô làm đệ tử. Từ ấy các cô tuy được nơi tu tập mà người nào cũng thường than thân tủi phận. Sư bà thương tình khuyên dỗ: Các con mới gặp bao nhiêu tai nạn, vừa qua đã cho là khổ. Nếu các con biết rõ đời ta, thì các con phiền não đến bậc nào! Các con ôi! Khi ta còn ngoài đời, thì ta cũng có đôi bạn như ai. Theo phong tục nước ta, hễ mỗi khi gần sanh thì các cô gái có chồng được đưa về nhà cha mẹ ruột. Cũng như hai lần trước lần thứ ba, lúc cận ngày khai hoa nở nhụy, cả gia đình ta: Chồng vợ con cái cùng kẻ ăn người ở trong nhà đều kéo nhau về mái hiên cha mẹ ta cả. Trong khi đi đường xa vất vả, bữa nọ, vừa băng ngang cánh đồng vắng cách xa làng mạc, đến con sông thì trời sắp tối. Rủi gặp con nước rồng lại không thuyền, chẳng biết làm sao qua sông, gia quyến ta phải tìm gò nổng tạm nghỉ một đêm, đợi sáng ngày nước cạn sẽ đi qua, mới gặp chỗ cao ráo sạch sẽ thì bụng ta quặn đau. Một chặp sau ta sanh một đứa con trai thứ ba giống hệt hai anh nó. Chồng ta và kẻ tùy tùng lập tức kiếm cây lá làm tạm cái sàn gác cho mẹ con ta nằm đó.

Khi lo xong cho bốn mẹ con ta có chỗ nằm kín đáo, ấm áp, chồng ta với bạn bè mới lên một cái nồng gần bên nghỉ ngơi, một sự bất ngờ rùng rợn đã xảy ra trong giữa đêm trường canh vắng là: nhiều con rắn độc to tướng đánh hơi người bèn bò đến nuốt cả chồng ta với các tôi tớ, mẹ con ta nhờ nằm trên sàn cao, dưới có bếp lửa đỏ, loài mảng xà không dám lại gần, sáng ngày thừa dịp nước ròng sát, ta định lội qua sông về quê quán chớ không còn phương nào hay hơn nữa. Ta bèn cõng con đầu lòng đưa sang qua bờ sông bên kia trước. Ta lội trở lại bên này, đai đứa con thứ hai trên lưng, còn đứa mới sanh thì để vào cái đãy vải ngậm ở miệng và đi từng bước dưới dòng nước. Ðến giữa sông ta nghe bên kia bờ tiếng con ta rú lên bài hãi. Thì khốn thay! một con hổ vồ lấy nó, rồi tha tuốt vào rừng, trước cảnh đau thương bất ngờ ta không còn tỉnh trí, hả miệng kêu to, đứa bé trong đãy rơi ngay xuống nước. Bấm loạn tâm thần tay chân run rẩy, ta cứ lặn hụp dưới đáy sông, mò đứa bé mới nở, quên lững đứa con thứ hai đai trên lưng mà ta đã vô tình giết nó chết ngộp. Thảm thiết thay! Chỉ trong một ngày đêm, tới sáng mà cả gia quyết ta: chồng, con, tôi, bạn đều chết không kịp trối. Ta đành rơi lệ, nuốt sầu gắng gượng lội tới mé lên bờ, kiệt sức quá, ta ngã xỉu ngất đi, không còn biết sự gì nữa.

Trong lúc đó có một lũ ăn cướp đi qua gặp ta bắt đem về nhà nuôi rồi ép ta làm vợ. Chẳng bao lâu tên tướng cướp làm chồng sau của ta bị bắt và lãnh án tử hình. Ta cũng bị chôn sống theo chồng do phong tục. Sau mấy tiếng đồng hồ bị lấp đất, có bọn cướp khác đến đào mả định lấy của quý. Thấy ta còn thoi thóp, chúng bèn cứu ta đem về săn sóc lành mạnh rồi cũng bắt buộc ta lấy tên chánh đảng làm chồng.

Ăn ở với nhau được ít lâu, ta có thai. Tối nào, trước khi đi làm việc bất lương, chồng ta cũng dặn phải chực chờ mở cửa cho nó vào mau mau khi có tai nạn xảy đến. Một hôm, nó vừa ra khỏi nhà thì ta đau bụng, cách một chập sau, ta sanh một đứa con gái. Ðồng thời chồng ta bị người đánh đuổi chạy về rất gấp. Ta mắc bận bịu vì đứa con nên không kịp mở cửa. Nó giận dữ tung cửa vào định giết ta? Ta chỉ đứa con mới nở hy vọng nó nghĩ tình máu thịt mà bớt cơn thịnh nộ đi chăng. Sau ta thất vọng: nó gắt gỏng, chỉ mặt đứa nhỏ bảo rằng: nó là nghịch tử báo đời. Rồi nó liền giết ngay. Nó kề gươm vào cổ ta, bắt buộc ta phải ăn thịt đứa nhỏ ấy thì nó mới tha.

Cách ít hôm sau, tướng cướp này bị sa vào lưới pháp luật chịu án tử hình. Ta cũng bị chôn sống một phen nữa gần bên mé rừng. Ít phút sau có một con cọp đến moi mả tha xác người chết ăn thịt. Thân ta chôn ở dưới thây chồng ta khỏi bị cọp ăn. Ðược thoát nạn này, ta ngẫm nghĩ cuộc đời của ta vào sanh ra tử, khốn khổ vô cùng, nên ta không còn tiếc những ngày sống thừa nữa, ta mới quyết chí xuất gia đầu Phật.

Các cô thiếu nữ nghe nói hết sức kinh nghi mới bạch rằng: "Nay sư bà đã tu hành đắc đạo, sư bà có thể cho chúng con rõ nguyên nhân nào sư bà gặp lắm nỗi gian nan rùng rợn như thế không?".

Bà Hoa Sắc Tỳ kheo ni thong thả đáp: "Các con ơi! Có chi lạ đâu, đó là quả báo như muôn ngàn quả báo khác của tiền nhân kiếp trước mà thôi. Ðây các con hãy nghe: Nguyên kiếp trước của ta, một thuở nọ, ta có chồng có con. Chồng ta có vợ lẽ cũng có con như ta. Vì ghen tương mà nhất là tham của, ta sợ gia tài của chồng ta phải chia cho con vợ bé thì mẹ con ta chẳng được phần nhiều, nên thừa dịp chồng ta với người thiếp đi vắng, ở nhà ta giết con chúng nó hết. Chuyện sát nhân đem đến cửa quan, tra khảo cách nào ta cũng chối mãi và ta lại thề dối rằng: "Nếu tôi có giết con chồng tôi, thì tôi sẽ bị khổ sở vô cùng, cả nhà tôi tan nát, các con tôi sẽ bị cọp tha, chết chìm, tôi sẽ bị chôn sống, chết ngộp v.v... Nếu tôi có ác tâm giết con vợ lẽ chồng tôi, thì ngày kia tôi sẽ bị người ta bắt buộc tôi phải ăn thịt người con tôi."

Ðó các con có thấy không, một lời nói ra thì va lấy, một tiếng thề dối mà mắc ngay, một hành động ác thì bị quả báo dữ không sai. Biết được lý nhân quả như bóng theo hình, tợ vang theo tiếng, thì các con không còn thắc mắc gì với những tai nạn của các con ngày nay cũng như của bà ngày xưa. Cho hay nhân nào quả nấy, chớ khá than van; vì không bao giờ một việc xảy ra mà không có duyên cớ. Vậy khuyên các con phải tin nhân quả mà lo tu hành.


Hết
487




Bà mẹ đến thăm cô con gái.

- Nhà con tôi đây ư? Gọn gàng, ngăn nắp thế! Lấy chồng vào có khác!


- Khác nhiều chứ mẹ - Cô con gái nói - Anh ấy chịu khó còn hơn cả mẹ cơ.


Tại sao anh không tưới nước cho vườn hoa nhà mình đi? - Cô vợ giận dỗi bảo chồng.


- Em không thấy là đang mưa to như trút nước kia à? - Anh chồng vặc lại.


- Thì mặc áo mưa vào! Sao anh lười thế không biết!

417




Trên một chuyến tàu vượt Đại Tây Dương, cô gái viết trong nhật ký của mình: Ngày thứ nhất: Biển đẹp, con tàu rất lớn và thuyền trưởng cực kỳ đẹp trai. Ngày thứ hai: Thuyền trưởng đã tỏ tình, dọa sẽ làm đắm con tàu nếu mình từ chối. Ngày thứ ba: Ăn tối với "mối đe dọa" con tàu. Ngày thứ tư: Suốt đêm qua, mình đã cứu con tàu cùng 1.300 hành khách.

2288








Người đàn bà Việt kiều lo ngại nhìn màn mưa nhiệt đới lạ lùng nghiêng xám khoảng trời Sài Gòn buổi chiều cuối năm. Từng hạt nước thô tháp rơi lộp độp xuống mặt phi đạo, nóng nảy bốc hơi, quyện vờn trên mặt nhựa đen loáng nước. Hai người công nhân phi cảng, vui mừng với món tiền lớn, đang lăng xăng bận rộn làm vui lòng khách. Họ vội vã phủ lên chiếc quan tài bọc kẻm tấm bạt nhựa màu xanh rồi đứng che mưa bằng hai chiếc dù căng lớn như lọng.

Người đàn bà buồn bã sang trọng trong trang phục màu đen. Bà ngồi im lặng giữa đống hành lý trên băng ghế gổ đặt cạnh quan tài. Những ngón tay trắng xanh vịn hờ lên cổ áo quan có mẹ già trong đó, vĩnh viễn lìa xa. Khoảng đường bay sướt mướt im lìm trong màn mưa giăng như khúc xa lộ buồn lặng lờ một nỗi nhớ nào đó xa lắc hình như. Nhìn những bong bóng nước thoắt vỡ tan, bà nghĩ đến đóa hoa nở vội trong một bài hát cũ mà nghe lòng hụt hẩng nỗi buồn của thoáng chốc lìa tan, mông lung tạm bợ nẻo về.

Ðã hơn hai mươi năm, đây là lần đầu tiên ông bà trở về Sài Gòn sau ngày người chồng được thả khỏi trại tù cải tạo rồi trốn tìm tự do. Vài năm sau, khi cậu em của bà vượt biên, người mẹ theo con để có người “lo cơm nước cho thằng Út” và “kiếm vợ cho thằng Út để có cháu ẳm”. Ước vọng đơn giản của người mẹ đã trở thành một nỗi buồn. Cuộc sống bon chen trên vùng đất lưu vong đã cuốn hút con cái của mẹ vào chuyện học hành, mưu sinh, khuya sớm đi về, bơ phờ máy móc. Từ nhiều năm nay, bà chưa hề bước ra khỏi nhà một mình dù chỉ là chuyến đi ngắn mua sắm vặt vảnh. Ra vào một mình trong căn nhà vắng, nghĩ đến thằng Út đã xấp xỉ bốn mươi vẫn chưa có vợ, bà càng thêm buồn bã và nhớ quê hương. Có khi bà ngồi im lặng hàng giờ, nhắm mắt, mường tượng từng khoảng nắng trên con đường từ chợ về bến đò Quản Nhung. Bà vẫn nhớ rõ như in từng mái nhà ngói đỏ ẩn hiện sau những bụi điên điển vàng ngát nắng trưa. Bà vẫn như nghe rõ đâu đây tiếng máy tắc-ráng rộn rã đua nhau trên giòng kinh Ông Chưởng trên đường chạy ra Long Xuyên cho kịp phiên chợ. Bóng cây ô môi cao vời bên bến đò thả bóng nắng êm đềm xuống bờ nước, sóng lao xao vỗ về lòng cô gái cù lao Giêng rộn ràng ước hẹn. Thánh Ðịa Hòa Hảo bên kia vàm mênh mông phù sa - bến nước trong cho nàng sáo mơ màng một chuyến sang sông. Chuyến đò ngang mỗi sáng đưa ông giáo trẻ từ Thánh Ðịa về Chợ Mới dạy học đã một ngày kết hoa cho sáo sổ lồng. Vàm sông đêm hoa chúc thơm sáng một trời trăng, ân cần lời kinh răn nhủ, vương vấn điệu hò. Thời gian êm ấm trổi dài theo hạnh phúc gia đình, con cái lớn khôn, vuông tròn đời mẹ ước mong...

Rồi con gái lấy chồng xa, tuy có bùi ngùi bờ lau bến nước, mẹ vẫn vui biết lòng con choáng ngợp yêu thương. Xe hoa là đoàn chiến đỉnh. Con tàu tình yêu đã đưa cô gái Hậu Giang đi hết một chiều dài đất nước, qua vùng biển xa, dừng lại bên bến nước êm đềm trang trọng một giòng Hương.

Rồi oan khổ tai ương đổ xuống. Con gái theo chồng sống kiếp lưu vong. Ông giáo qua đời. Bà mẹ, chân sáo thân cò lặn lội, sống hẩm hiu cùng con trai. Mỗi cuối ngày trên đường từ chợ về, bà thường ghé vào khu nghĩa trang gia tộc, ngồi lại bên mộ chồng. Giây phút yên lặng bên người thân đã giúp tâm hồn bà bình an mà gom sức cho ngày tới. Trong nhang khói, bà cảm thấy mình nhỏ nhoi trên rẻo cù lao Thánh Ðịa sông nước trùng vây. Ngọn tháp chuông nhà thờ phía cù lao Giêng cao vượt khỏi hàng cây lô nhô bóng lá, thẩm xanh trong ráng chiều. Bóng người lấm tấm di động dưới tàng cây ô môi phía bến đò cù lao Ông Chưởng trông xa như một cửa động thâm u.

Vàm sông rộng làm lênh đênh những chuyến đò ngang và quay quắt lòng người vợ không đành bỏ mộ chồng điêu tàn hương khói. Thế nhưng lòng thương con đã giúp bà bước chân xuống đò qua sông lần cuối, theo con đi đến một thế giới xa lạ.

Từ hơn một năm nay, lòng mẹ khấp khởi mừng vui khi thằng Út cho hay sẽ về Sài Gòn cưới vợ. Bà trông ngóng từng ngày chuyến trở về quê hương để thấy được ước vọng cuối đời trở thành hiện thực. Cưới vợ cho con. Ðưa dâu về quê nội, cùng nhau qua chuyến đò ngang từ bến đò Quản Nhung về Thánh Ðịa bà vẫn mộng hằng đêm.

Thế mà căn bệnh oan khiên đã kéo đến giết dần mòn thân xác và ước vọng một đời của mẹ.

Người đàn bà lau nước mắt, ngón tay thon mân mê vuốt nhẹ lên mặt chiếc áo quan lấm tấm những giọt mưa đọng như muốn níu giữ hình hài thương mến mẹ già.

- Ai như ông đang đi ra đó cô Hai ! Có tiếng reo vui của cô gái công nhân.

Người đàn bà thở ra nhẹ nhỏm, quay nhìn chồng đang vội vã đi về phía mình. Ông tươi cười lắt lay hai thẻ nhập cảnh trước mặt vợ.

- Cậu Út đã lấy visa. Anh chàng đang ở ngoài kia tìm thân nhân bên đàng gái và thuê bao xe để sáng sớm mai chở Má đi Long Xuyên cho kịp chuyến đò về Hòa Hảo.

- Họ có làm khó dể, hỏi han anh nhiều không ?

- Thì... ngoài lệ phí ba tấm visa, anh dúi thêm năm chục đô nữa nên ai cũng dể tính và lịch sự.

Người công nhân lớn tuổi nói chen vào.

- Ông cho vậy là nhiều quá rồi đó.

Cô gái chép miệng.

- Mấy thằng chả. Cha nào cha đó giàu sụ...



Người đàn ông ngồi xuống bên vợ. Ông dõi mắt ngó mông lung những vòm mái hoang phế, đổ nát, nằm rãi rác dọc theo phía bên kia phi đạo. Trong thời chiến tranh đó là nơi cất chứa chiến đấu cơ phản lực, giờ đây cỏ tranh cao quá đầu người mọc lan kín lối đi.

Trời dứt mưa, bất chợt như lúc đến. Mây tan từ phía cuối phi đạo nhường chổ cho ánh mặt trời rọi chiếu lên những vũng nước đọng lónh lánh trời xanh. Mưa vẫn đến rồi đi vào buổi chiều ở Sài Gòn, bất chợt, thủy chung. Mưa Sài Gòn. Nào có ai đổi thay được cơn mưa nắng Sài Gòn... Những hạt mưa lóng lánh kỷ niệm, mát mặt ướt lòng. Từng giọt nặng đau thương mà cần thiết cho cuộc trở về. Lòng ông vun lên nỗi xúc động gặp lại niềm thân thiết tang thương cũ. Từ trong ngút ngàn kỷ niệm, lãng đãng những mãnh đời phung phá hoa niên và một mùa chinh chiến đã xa, người đàn ông bắt gặp mình trên nẻo về, rủ bụi phong trần sau cơn mưa chiều bất chợt, ngồi lại lắng nghe những bồi hồi xưa cũ trong từng nhịp đập tim mình.

Người đàn ông đăm chiêu nhìn cổ áo quan phủ bọc hình hài người mẹ. Vì thương con nên phải chịu đời lưu dân nhưng trong lòng mẹ vẫn mãi quay quắt một cõi về vĩnh cửu bên chồng. Ông bồi hồi nghĩ đến những người chết trong đoạn đời chiến binh ông đã đi qua. Bao nhiêu chiếc quan tài phủ quốc kỳ được người sống sắp thành hàng chờ đưa lên máy bay ở quãng phi đạo ngoài kia? Chiếc quan tài lẻ loi ở phi trường Ðà Nẳng một sáng tháng Ba bảy lăm. Cái chết muộn màng của Chánh ở cuối giòng sông Thu Bồn. Lần vĩnh biệt quá sớm cho hai hàng nước mắt tiếc thương trên má hồng non thiếu nữ. Ngôi mộ bạn cùng bao nhiêu nấm mồ chiến binh khác trong khu nghĩa trang có tượng người lính ngồi buồn bên xa lộ lối vào thành phố giờ đã lưu tán phương nào? Muôn vạn hồn thác oan, lạc nẻo trùng ngộ quê nhà, long đong bóng ma trơi cuối trời hư huyển. Người còn sống vẫn phải đọa lạc lưu đày trên chính quê hương mình hay mãi loay hoay tìm sống trên vùng đất tạm dung bên kia vời vợi biển xa. Còn ông? Có phải ông đang trở về? Hay chỉ là một chợt tỉnh phù du giữa cơn mê chiều bởi giọt nước mát đọng trên ngón tay ông lay buồn gõ nhịp lên nắp cổ quan tài.

Quê hương một thuở lớn lên. Xốn xang lòng ông hình ảnh con tàu chập chùng đêm khơi tháng Chạp. Vùng biển bên ngoài phá Tam Giang loang loáng trăng khuya. Bãi cát dài xuôi về phương Nam nhẩn nhục nằm yên nghe cơn cuồng nộ của biển. Quê cha trong đó, sau độn cát dài hoang vu uốn lượn hình hài của gió. Tháp chuông nhà thờ Thanh Hương cao vút trong nắng chiều ba mươi Tết. Tiếng chuông ngân đổ dài theo đường quan xuống tận bến đò Ðại Lược như lời chào đón con cháu về quê ăn Tết. Chưa hết háo hức sau chuyến xe từ Bến Ngự về Ðông Ba, bầy trẻ con đứng bên cha chờ xuống ghe ở bến đò Gia Hội. Bốn đứa bé ngập ngừng từng bước chân nhỏ trên tấm đà gổ hẹp để vừa kịp rơi vào tay mẹ đang đứng chờ dưới lòng thuyền. Ðò đi mất nửa ngày sông thì về tới làng. Dọc hai bên đường làng là những ngôi nhà thờ họ, lăng mộ ôm quanh, cát trắng in hình cỏ may bay đùa trong gió biển thơm quyện khói hương con cháu về thăm.

Người đàn ông buồn bã nghĩ đến mộ cha mộ mẹ giờ vẫn hai nơi, quạnh quẻ tha hương. Người chết, người sống, vẫn mãi long đong tìm kiếm lối về.

Ðôi vợ chồng im lặng ngồi bên nhau, lắng nghe tim mình đập nhịp trở về. Lòng họ bồn chồn thấy mình trên chuyến đò qua bắc Năng Gù, qua bến chợ Long Xuyên rồi theo giòng đưa mẹ về với cha bên vàm Nao, quê hương Thánh Ðịa, âm vọng muôn đời lời sấm giảng trọn vẹn nghĩa nhân.

Họ băn khoăn nghĩ tới chuyến đi sắp tới, dọc dài một phần đất nước, tìm bốc mộ cha. Ông không có nhiều kỷ niệm với vùng cao nguyên nhỏ bé có giòng sông cạn lòng lô nhô đá chảy qua thị xã. Có chăng là sự hàm ơn núi rừng đã chìu đãi bước chân người tha phương cầu thực. Người cha đã gầy dựng cơ nghiệp rồi nằm lại một mình trên vùng đất hẻo lánh. Mẹ theo các em ông trở về quê. Cuộc sống đã dừng bước chân gia đình bên Vịnh Hàn. Rồi mẹ ông qua đời ở đó, phíabên này đèo Hải Vân vời vợi mây bay. Cuộc sống khó khăn nên khoảng cách một ngày xe đã quá nhiêu khê. Mẹ cha trong cõi chết vẫn mãi nằm trong cách trở, núi biển lìa xa.

Người đàn ông cầm tay vợ, lòng run xúc động, mường tượng lúc đem hài cốt mẹ cha về sum họp trên bờ đất tổ, trắng phau triền cát rịn gió biển Ðông. Ông chợt nghe tiếng chuông nhà thờ Thanh Hương ngân dài theo bước chân ông về trên con đường quan dẩn xuống bến đò Ðại Lược.





Tay vịn hờ tấm hình mẹ đặt trên cổ áo quan, cậu Út bảo người tài xế từ từ lái xe ra bãi đậu trước nhà phi cảng nơi thân nhân bên đàng gái đang đứng chờ. Họ ngồi hai bên quan tài được đặt ngay ngắn trên sàn xe đã tháo trống các dãy ghế sau. Ðối diện cậu Út, hai vợ chồng chật vật ngồi trên cái đòn gỗ không đủ dài. Người đàn ông xoay người sắp lại mấy cái xách hành lý cho gọn trong lúc người vợ đang đốt nhang. Bà cúi đầu khấn vái rồi cắm nhang vào chiếc bình nhỏ chứa đất lấy bên khóm mộc lan người mẹ trồng ở vườn sau nhà bên Mỹ.

- Thật là may. Em và ông già vợ tương lai chạy tìm mãi, chỉ toàn là xe taxi chở khách. Ðang thất vọng thì gặp chiếc này. Một ông già Việt kiều về thăm nhà, qua đời bất ngờ vì bệnh tim, trối trăn con cháu phải mang về mai táng ở Mỷ.

Người đàn ông chép miệng.

- Sống. Chết. Kẻ đi người về, riết rồi chẳng biết ai đi ai về...

Rồi ông đùa với cậu em vợ giữa tiếng cười nhẹ.

- Cũng hay là Má muốn được mang về quê mai táng, cậu có thời giờ để cưới vợ chạy tang, chứ không cô cậu đành phải chờ thêm ba năm nữa... héo cả ra.

- Già cúp rồi. Khô nứt ra chứ héo úa gì được nữa anh Hai. Em đã tính... kẹt lắm thì cưới hàm thụ, qua điện thoại.

Người đàn bà gật đầu, nghiêm trang.

- Có lẽ Má đã nghĩ đến điều này lúc trối trăn. Mấy tháng trước lúc đi thăm sinh phần, Má vui lắm, đâu có đề cập gì đến chuyện về quê... Rồi bà bật khóc, kể lể...Bây giờ Má về quê nằm lại một mình. Con cái có giỏi lắm thì mỗi năm về thăm được vài ngày lại đi.

Người đàn ông ôm vợ vỗ về.

- Má về quê nằm bên Ba, với làng với nước, như vậy là ấm cúng mãn nguyện rồi.

Xe chầm chậm lăn bánh qua khoảng sân rộng trước nhà khách phi cảng rộn rịp người xe qua lại, đến đi, đưa đón, khóc cười.





Ông cha vợ tương lai của cậu Út dáng người thấp nhỏ, nhanh nhẹn. Ông vồn vã tay bắt mặt mừng lúc cậu Út giới thiệu anh chị mình. Bà mẹ đứng nhỏ nhẹ hiền từ bên cô dâu. Có lẽ sự niềm nở của người đàn bà Việt kiều đã giúp họ giữ được tự nhiên. Ánh mắt họ cười theo chuổi cười còn vướng víu chút ngỡ ngàng của bầy năm đứa em trai đang lắng nghe người đàn ông kể chuyện Cali. Người cha lăng xăng thắp nhang khấn vái rồi bảo con gái bày biện quả trái lên nắp quan tài. Nhìn đôi vợ chồng sắp cưới vụng về bên cổ áo quan mẹ già, người cha đắn đo hồi lâu, rồi thấp giọng như phân trần với vợ chồng người Việt kiều.

- Lẽ ra thì...nhà chật chứ chật chi lòng...nhưng vì...

- Chú thím đừng ngại. Cậu Út có nói em Nương đã tìm mướn giúp phòng ở khách sạn rất gần nhà. Như vậy là thuận tiện lắm rồi... Người đàn bà thân thiện cầm tay bà mẹ, nhanh nhảu đở lời.

- Cô Hai nói vậy vợ chồng tui cũng yên tâm. Khách sạn có sân rộng kín đáo lắm. Xe đậu ở đó qua đêm, mình thường trực thăm chừng khói hương ấm cúng thì có lẽ bác cũng không chấp trách.

Người đàn ông nghiêng đầu, cáo từ.

- Cảm ơn chú thím đã lo lắng chu đáo. Chúng tôi xin phép về khách sạn để kịp thu xếp chuẩn bị đến nhà cô dâu cho tươm tất. Ông nhìn vợ, cười ý nhị...Tang gia tuy có bối rối nhưng đi dự lễ cưới của cậu Út, chị Hai phải diện vào cho bảnh chứ!

Bà mẹ nhìn người đàn bà bằng đôi mắt ngưỡng mộ.

- Cô Hai như vậy là đẹp quá rồi, khỏi cần sửa soạn gì thêm...

- Bên nhà, mọi việc đã chuẩn bị xong, chỉ chờ cô chú và anh Út qua là bắt đầu lễ cưới... Gọi là chút nghi lễ cho đúng phong tục ông bà để lại. Sau đó...coi như là rước dâu đi!... Cậu Út sẽ đưa con Nương về lạy quan tài để bác nhìn nhận dâu con.

Người cha cảm thấy nhẹ người sau khi bày tỏ ra được mấy câu nói ngắn ngủi mà ông mãi suy nghĩ sắp xếp suốt thời gian cùng gia đình đứng chờ trước nhà phi cảng. Nét mừng hiện rõ lên khuôn mặt khắc khổ của người cha suốt đời lo lắng cho gia đình, con cái. Ông mừng cho con Nương có được nơi gia thế đàng hoàng để nương tựa. Vợ chồng ông từ đây sẽ hết lo buồn cho đứa con gái độc nhất, “hâm tới hâm lui” tám chín lần mà vẫn chưa có chồng. Ông bước đến vuốt tóc Nương, dặn dò con gái ở lại theo xe để chỉ đường về khách sạn, rồi cùng vợ rảo bước theo bầy con trai đang đi về phía bãi đậu xe gắn máy.

Cử chỉ trìu mến hiếm hoi của cha già làm cô gái ngạc nhiên đến ngơ ngác rồi vỡ bùng xúc động. Ðôi mắt Nương long lanh giọt lệ lúc nàng bước lên xe ngồi cạnh người chồng sắp cưới. Ngón tay Nương run run vịn hờ lên nắp cổ áo quan.





Sài Gòn sau cơn mưa tươi mát như người vừa tắm gội xong. Dãy phố bán cây kiểng phía ngoài cổng phi trường rực rỡ từng hàng chậu hoa tết dọc theo lề đường nhộn nhịp người xe qua lại. Vợ chồng người chị sau vài câu thăm hỏi thân mật đang mãi mê quay nhìn cảnh phố phường lạ lùng trước mặt. Nương bẽn lẽn liếc nhìn người chồng sắp cưới đã tự lúc nào đó tìm nắm lấy tay nàng. Trong bấc giác, ngón tay cô gái khẻ lay đôïng như muốn bấu víu chút sự thật ấm lòng, cùng lúc với cảm giác vừa chạm mặt nỗi buồn rất mới ùa đến bủa vây.

Bầy xe gắn máy của em trai Nương, vui mắt chạy thành đoàn như trong một đám rước, chìm lẫn rồi biến mất trong làn sóng người xe tất tả vội vàng trên con đường chạy về phía Ngã Tư Bảy Hiền. Nương căng mắt nhìn con đường cần mẫn nắng mưa nàng đã quen thuộc đi về gần hai mươi năm nay. Từ ngày Nương còn là đứa bé mười tuổi trên vùng quê nghèo xứ Quảng, cùng gia đình tha phương cầu thực, ngơ ngác lạc lõng giữa phố phường Sài Gòn.

Nương cảm thấy bơ vơ trên chuyến xe đưa người chết về quê. Chuyến xe sẽ giúp đưa nàng về cõi sống vẫn từ lâu ước vọng, sao nhịp vòng quay nghe như nhịp lòng đang thổn thức.

- Cô dâu chưa làm đám cưới mà đã nhớ mẹ rồi sao ?!

Cô gái lau vội vệt nước mắt trên má, ngượng ngập nhìn người chị chồng tương lai đang nhìn nàng mỉm cười chế diễu.

- Em nghĩ đến chuyến đi ngày mai rồi chợt nhớ quê nội ngoài Trung đã hai mươi năm xa cách chưa về thăm lại một lần.

- Anh cũng rất mong muốn được về thăm quê em một lần cho biết. Sau chuyến đi Hậu Giang, tụi mình thế nào cũng ra Trung.

Người anh rể nhìn cậu Út pha trò.

- Cậu đã lượng sức chưa mà dám tuyên bố hung hăng quá vậy ?! Ðất Quảng Nam chưa mưa đã thấm. Rượu Hồng Ðào chưa nhấm đã say...đó! Tui đóng Giang Ðoàn ở Cửa Ðại một thời gian đã từng chứng kiến bạn bè “cá gô cây” bị thất tình quên cả đường về Lục Tỉnh.

Nghe người đàn ông nhắc đến tên vùng quê nội thân thiết, Nương mừng nói như reo.

- Anh Hai có ở Cửa Ðại vậy là biết làng nội Xuyên Thọ của em rồi.

Giọng người đàn ông chùng xuống.

- Tôi có người bạn thân gục chết trong lòng tàu giữa đầm sông rộng đó.

Nương bồi hồi lắng nghe người đàn ông kể lại kỷ niệm thời chiến tranh ông đã đi qua trên vùng quê nội điêu tàn. Nàng chợt cảm thấy gần gủi với người đàn ông đang ngồi trước mặt mình. Nơi chốn. Thời gian. Sự trùng ngộ ấm lòng giữa mơ hồ giăng mắc nhân sinh. Ðứa bé gái lên hai chập chửng bước trên bãi cát vương màu lụa. Người lính trẻ đứng trên chiến thuyền giữa đầm sông nối biển vọng mãi triều âm. Buổi sáng. Buổi chiều. Hay đêm trăng mờ cát vàng Xuyên Thọ. Phận người mở ra, khác biệt mà tương quan. Và như thế, trong một lúc một nơi nào đó, hạnh phúc choàng đến. Hạnh phúc được bắt gặp trên nẻo về quê nhà. Hạnh phúc được tìm thấy từ sự gặp gở qua mỗi phận người.

Hình ảnh đứa bé gái còm cõi ngồi trên độn cát vẫn sống mãi trong trí nhớ nàng, buồn bã như giấc mơ không thành. Bé Nương lo lắng khóc ròng nhìn chú bò sơ sinh chập choạng đi theo mẹ, sợi nhau nối liền cuốn rún chưa lìa kéo lê trên triền cát. Nội phì phèo điếu thuốc rê, lấy rựa cắt nhau cho chú bê con, vùi nắm nhau máu me trong cát nóng, rồi ẳm cháu về nhà. Mấy tháng sau thì Nội mất. Ông nội nằm sơ sài bên mộ bà nội trong nghĩa địa cuối làng có hàng dứa xanh xơ xác trồng quanh. Những bụi xương rồng gai góc mọc lẫn giữa hàng mộ cát làm ngại ngần bước chân ba chị em, tóc khét nắng tìm hái sim dại. Làng quê Xuyên Thọ nằm dọc theo biển phía bờ Nam Cửa Ðại. Khu xóm chài quay mặt về phía đầm sông, ẩn mình sau độn cát dài để tránh mùa thịnh nộ tháng Mười, “Ông tha Bà không tha”. Vùng đầm sông rộng như một vịnh biển mênh mông sóng tràn. Vào mùa lũ lụt, nước nguồn theo sông Ô Lâu, Thu Bồn, Trường Giang, Ðế Võng, cuồn cuộn đổ về cuốn theo từng mảng lục bình, dừa nước, quây quần trong đầm sông trước khi bị cuốn phăng ra biển. Bên kia đầm, làn nước dâng cuộn nhận chìm trong sóng bạc bãi cát phơi lưới của xóm chài Thuận Tình xanh ngắt bóng dừa.

Có lần con Nương nghe mẹ kể chuyện với cha về ánh trăng chiếu lên độn cát quê làng đẹp như lụa vàng mẹ dệt khi từ dưới bóng dừa Thuận Tình đứng nhìn về Xuyên Thọ. Chuyện kể thành giấc mơ đẹp trong đầu óc bé thơ nên con Nương vẫn thường tần ngần đứng nhìn chuyến đò ngang hiếm hoi rẽ sóng chạy về khu xóm dừa xanh.

Ngày cha mẹ đưa ba chị em trốn theo ghe ra Cù Lao Chàm tìm đường vào Sài Gòn sinh sống, con bé Nương đứng trên bến đò nhìn về phía xóm chài Thuận Tình, lòng buồn thiu nhớ lại giấc mơ chưa làm được vì chuyện ra đi. Vẫn chỉ là giấc mơ.

Từ lâu lắm, màu trăng soi trên cát vàng quê nội vẫn sáng mãi trong huyền hoặc giấc mơ nàng.

- Có thể nào mình về quê cho kịp Rằm tháng Giêng này không anh.

Giọng cô gái nhẹ như hơi thở quyện trong ánh mắt ngước nhìn long lanh màu trăng sáng. Âm ba khẽ rung từ cung bậc khác với tiếng đời đang rộn ràng kéo đuổi ngoài kia, mong manh mà gần gủi như bờ môi đang chạm lên từng sợi thính giác tê rần. Người đàn ông đứng tuổi lưu lạc quê người cầm tay vợ, tươi cười gật đầu trong thảng thốt bàng hoàng của nỗi hạnh phúc trễ nải mà tinh khôi đang rào rạt lòng mình .

1908




Có một bà đỡ khá lành nghề nhưng hay mất bình tĩnh. Người ta gọi bà đến đỡ một ca đẻ con so, tới với hòm dụng cụ trong tay, bà nói với người chồng:
- Mời anh ra ngoài, cần gì tôi sẽ gọi. Sản phụ đã bắt đầu la hét. Khoảng 10 phút sau, bà thò đầu ra cửa và nói:
- Anh có kìm không?
- Hả?! Anh chồng tròn mắt hỏi.
- Vâng, kìm, nhanh lên! Không hả hở gì hết, tôi biết việc tôi phải làm. Có kìm rồi, khoảng 5 phút sau, bà lại xuất hiện ở cửa:
- Anh có cái cờ lê to không?
- Cờ lê à? Lạy chúa, điều gì đã xảy ra với vợ tôi?
- À... không sao, nhưng tôi cần một cái cờ lê. Người chồng bâng khuâng ngắm cái cờ lê rồi miễn cưỡng đưa nó cho bà ta. Cửa khép lại, tiếng kim loại va chạm nhau xủng xoảng, két... két. Anh chồng ở ngoài nghiến chặt răng, mặt tái dại, chân tay run bần bật. Được một lát, thở hổn hển, mặt nhễ nhại mồ hôi, bà thò đầu ra cửa quát:
- Hãy nghe đây, tìm ngay một cái búa tạ, nếu chậm thì không kịp mất! Đến nước này, anh chồng không chịu nổi nữa, xô cửa xông vào, trước mắt anh là nền nhà ngổn ngang kìm, búa... và hòm dụng cụ chưa mở được.
1416


Powered by Blogger.