Trong phòng xưng tội, một phụ nữ Mỹ ngồi trước vị linh mục:
- Thưa cha, chồng con vừa qua đời đêm qua. Con có lỗi với anh ấy.
- Chúa tha tội cho con! Hãy chuộc lại lỗi lầm bằng cách thực hiện mong ước cuối cùng của người đã khuất. Thế trước khi qua đời anh ta có cầu xin điều gì không?
- Dạ, khó nói lắm!
- Con cứ nói! Đó là những nguyện ước thiêng liêng.
- Anh ta van vỉ con: "Em đừng bắn! Hãy cho anh một cơ hội cuối cùng!".
2167




Trong một chung cư nọ, ông lão sống ở tầng dưới còn cậu thanh niên ở tầng trên. Cứ 11 giờ đêm ông lại thức giấc vì chàng trai đi chơi về, tháo giày ném rầm rầm xuống sàn. Ông già gặp chàng trai và nói:
- Cháu ơi, nếu về khuya thì cháu làm ơn tháo giày đặt xuống sàn, đừng vứt mạnh làm ông giật mình mất ngủ. Cậu thanh niên biết lỗi, vâng dạ rối rít. Khuya hôm sau, theo thói quen cậu ta lại tháo chiếc giày thứ nhất vứt đánh rầm xuống sàn nhà. Chợt nhớ ra lời dặn của ông già, chiếc kia cậu vội nhẹ nhàng đặt cạnh chân giường. Khá lâu sau, cậu thanh niên giật mình thấy ông lão từ dưới gác mò lên, khẩn khoản:
- Cháu ơi, cháu làm ơn vứt nốt chiếc giày còn lại xuống đi để ông còn bắt đầu ngủ.
2149





Một doanh nghiệp mới thành lập có nhu cầu tuyển dụng nhân viên văn phòng. Họ treo một tấm biển ngoài cửa sổ trụ sở công ty, có ghi hàng chữ: "Tuyển dụng - Mọi ứng viên đều có cơ hội nếu đánh máy thạo, sử dụng tốt máy tính và biết một ngoại ngữ".

Một con chó hoang đi qua trụ sở công ty nhìn thấy bảng quảng cáo liền đẩy cửa đi vào. Nó ngước nhìn người lễ tân, vẫy đuôi, bước lại chỗ tấm biển và kêu rít lên.

Hiểu ý, người lễ tân liền gọi trưởng phòng tới. Ông ta cực kỳ ngạc nhiên khi biết ứng viên là một con chó. Tuy nhiên, vì vị khách bốn chân này có vẻ rất quyết tâm, ông vẫn cho nó vào phòng riêng để phỏng vấn. Đầu tiên, ông từ chối:

- Một chú cún con không thích hợp cho vị trí này. Công việc đòi hỏi ứng viên phải biết đánh máy.

Con chó chạy lại chỗ máy chữ và soạn thảo một lá thư hoàn chỉnh. Nó lấy tờ giấy ra và chạy lại đưa cho ông trưởng phòng rồi nhảy lên ghế ngồi chễm chệ.

Ông trưởng phòng choáng váng nhưng vẫn tìm lý do khác:

- Tấm bảng quảng cáo nêu rõ, ứng viên cần phải thành thạo máy vi tính.

Con chó chạy lại chỗ đặt máy tính, thao tác một cách cực kỳ ngon lành và hoàn tất một biểu mẫu tính thuế hoàn chỉnh.

Lần này, ông trưởng phòng nói không nên lời. Nghẹn giọng mất một lúc, ông mới lên tiếng:

- Tôi thấy rằng cậu là một chú chó rất, rất thông minh và có một số khả năng thú vị. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể giao công việc này cho cậu được.

Con chó nhảy xuống ghế, chạy lại chỗ một bản copy của bảng quảng cáo tuyển dụng và đặt chân trước lên dòng chữ: Mọi ứng viên đều có cơ hội.

Ông trưởng phòng nhún vai:

- Đúng vậy, nhưng công việc còn yêu cầu ứng viên phải biết một ngoại ngữ.

Con chó nhìn ông trưởng phòng một cách bình thản và cất tiếng:

- Me..e..e..o..o..o!
2677





Thành phố nhỏ, thành phố hiền hoà được lồng trong một tiểu bang không mấy người biết đến, người ta chỉ biết đến sau một biến động to lớn làm xao động cả thế giới, nếu không, chẳng ai biết đến tiểu bang này nằm ở chỗ nào trên bản đồ nước Mỹ. Thế nhưng, những ngày gần tết cũng xôn-xao nhộn-nhịp hẳn lên ở những chợ VN, Ở đấy người ta thấy la- liệt những chiếc bánh chưng, những đòn bánh tét, những hộp mứt, hộp trà, những phong bì đỏ. Ở cửa ra vào những chậu mai vàng nở rộ bên cạnh những chậu quất nặng trĩu trái. Sự tấp nập của người mua đã tạo nên một khung cảnh khác lạ với mọi ngày làm xao động không ít lòng người xa quê hương.

Ngoài trời vẫn lạnh, mùa đông nơi đây vẫn còn để thấy một vài cơn tuyết đi về, cây bradford trước nhà trơ trụi lá trông như bộ xương khô đang được tô điểm bằng những bông tuyết bay phất phới tạo nên một bức tranh thật hoang lạnh, để những kỷ niệm xưa cũ vẫn đi về như những bóng ma chập chờn níu kéo từ một hố thẳm ký ức nào đó. Tiếng điện thoại reo vang làm Quỳnh giật mình.

- Quỳnh đang làm gì đó? vừa gọi đến sở làm họ bảo Quỳnh bị đau không đi làm, bộ Quỳnh đau thật ha?

Quỳnh cười nhẹ chống đỡ:

- Đâu có, tại lười nên lấy cớ vậy thôi, nhưng sao không chờ cuối tuần gọi mà lại gọi vào giờ này?

Ái giả bộ trách móc:

- Thì nhớ lúc nào gọi lúc ấy không được hả? Sao mà khó tính thế? người ta gọi để rủ sang Canada ăn tết với gia đình đây nè. Sang chơi chứ không thôi lũ nhỏ cứ nhắc đến dì Quỳnh mãi đấy.

Lặng im nhìn qua cửa sổ, những bông tuyết rơi càng lúc càng nhiều, sân cỏ khô trước nhà không còn dấu vết của những cơn nắng hạ, chỉ thấy một bãi trắng xoá, phủ kín cả lối đi. Quỳnh bâng quơ:

- Thôi, không sang đâu, bên này đang lạnh lắm, tuyết rơi đầy sân đủ để buồn rũ người ra đây nè, sang Canada để kiếm thêm cái lạnh vào người nữa sao? Nói với đám nhóc khi nào hết lạnh dì Quỳnh sang.

Ái không chịu kêu lên:

- Cái gì mà lạnh? cái gì mà buồn? cứ như mình là con chim trốn tuyết không bằng. Sang đây đi, sang đây để thấy cái tuyết, cái lạnh ở đây đẹp và dễ thương chứ không giống như chỗ Quỳnh ở đâu, vả lại tết này ở Toronto có nhiều mục lắm, có cả hội chợ nữa. Quỳnh mà không sang mình cũng cứ gởi vé máy bay cho Quỳnh đấy.

Không ngờ Ái gởi thật, thế là Quỳnh đành thu xếp công việc sang Canada ăn tết đúng vào cái ngày cuối năm. Cái ngày mà dù ở văn-phòng có bận cách mấy, Quỳnh cũng cứ kiếm cớ ở nhà chùm kín chăn đọc sách hay nằm nghe nhạc.

Ngày cuối năm sau những ngày lễ Thanksgiving, Christmas và New Year, hành khách đã bớt hẳn, phi trường vắng vẻ hẳn ra, không thấy một người VN hay Á Châu nào cả, chỉ mỗi mình Quỳnh với lác-đác những người dân bản xứ, vì Ái gởi vé đi gấp nên đường bay đã phải ngừng lại nhiều nơi để đón khách. Nhanh chân bước theo người tiếp viên tìm ghế ngồi, Quỳnh cẩn thận bước vào ghế trong sát cửa sổ. Người tiếp viên trước mặt đang lôi từng vật dụng cấp cứu ra để chỉ dẫn cách xử dụng và những điều phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp. Tiếng động cơ bắt đầu ầm-ỹ, con tàu lắc-lư, rít bánh trên phi-đạo rồi từ-từ lên cao làm Quỳnh rùng mình nhắm mắt. Khi tiếng động cơ đã êm trở lại, Quỳnh mở mắt nhìn qua khung cửa nhỏ, những building, nhà cửa, đường xá nhỏ dần rồi mất hút phía dưới. Bên ngoài không thấy gì ngoài những đám mây bàng bạc, xam-xám làm đầu óc Quỳnh lơ-đãng mông-lung.

- Xin lỗi, hình như cái khăn này của Cô thì phải?

Quỳnh giật mình quay lại, người đàn ông ngồi bên cạnh mà lúc nãy khi bước vào Quỳnh thấy che quyển báo trên mặt là một người VN, người đồng hương của Quỳnh. E-thẹn khi thấy chiếc khăn quàng cổ trên tay người khách lạ, Quỳnh cầm lấy ấp-úng :

- Dạ thưa vâng, nãy vội quá chắc tôi làm rơi... nhưng hình như không phải ông đi từ Oklahoma?

- Vâng, tôi đi từ Dallas, và hình như cô đi Canada phải không ạ?

Quỳnh ngạc nhiên:

- Thưa vâng, nhưng sao Ông biết?

- Tôi chỉ hy vọng vậy thôi, vì tôi cũng đi Canada.

Quỳnh mỉm cười im lặng. Người đàn Ông gợi chuyện:

- Tôi là Phú, xin lỗi tôi có thể biết tên cô để tiếp chuyện được không? Đường bay dài, mong sẽ đốt ngắn được thời gian.

- Vâng, tôi là Quỳnh Châu, nhưng gia đình và bạn bè lại cứ gọi tôi là Quỳnh.

- Tên Quỳnh đẹp quá, thế cô Quỳnh về ăn tết với gia đình hả?

Quỳnh thấp giọng:

- Dạ không, tôi chỉ sang chơi thôi ạ, thế còn Ông? chắc ông về Canada ăn tết với gia đình?

Liếc mắt nhìn bàn tay thon nhỏ mịn màng không đeo nhẫn của Quỳnh, Phú cảm thấy một sự yên tâm, một sự yên tâm vô cớ làm chàng muốn bật cười với chính mình:

- Không, tôi cũng như cô, không có cái diễm phúc ấy... không ngờ tôi với cô lại giống nhau trong chuyến đi cuối năm này...

Phú trầm ngâm tiếp:

- Cô Quỳnh nhìn quanh xem, chẳng có người VN nào giống mình cả, ai cũng tim về với gia đình, chỉ có những người không gia đình mới bỏ đi thôi, nhưng chẳng thà đi còn hơn là cứ ở nhà gậm nhấm nỗi buồn với bốn bức tường, ra vào chẳng biết làm gì, đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận chuyện gia đình, thành ra những năm mới sang, tết nào cũng một mình, một rượu say mèm để đừng nghĩ đến chuyện gì khác, rồi say quá ngủ mê mệt cho đến khi đi làm trở lại... thế là xong một cái tết.

Quỳnh im lặng, chợt thấy lòng trùng xuống, nỗi buồn như ào lấy vây quanh, như có người vừa đốt lên ngọn đèn soi rõ nỗi buồn cô đọng của nàng. Vâng, Quỳnh cũng có nỗi buồn, cũng có nỗi cô đơn của riêng Quỳnh. Nỗi buồn, nỗi cô đơn như vỏ ốc kiên cố giam giữ Quỳnh suốt bao nhiêu năm trời, sau cái ngày không giống một ngày nào đó trong đời Quỳnh. Từ cái ngày mà người ấy bỏ ra đi, đi vội vàng, đi bất ngờ, đi không một lời nhắn nhủ từ giã để cho Quỳnh xanh xao với nỗi nhớ, nỗi đau. Dù đã quá lâu, dù tất cả đã rong rêu vàng úa, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi về réo gọi Quỳnh trong những giấc mơ mà khi tỉnh dậy, Quỳnh cảm thấy nuối-tiếc, ngẩn-ngơ, bần-thần cả một ngày dài đôi khi tiếp nối cả qua ngày hôm sau. Không thấy Quỳnh nói gì, Phú lên tiếng:

- Cô Quỳnh hình như ít đi xa lắm phải không?

- Dạ thưa vâng, đi xa vào những dịp cuối năm tôi không mấy thích cho mấy, nhưng hôm nay vì nể bạn bè thành ra...

Quỳnh buông lửng câu nói, Phú tiếp:

-Vậy bạn của cô Quỳnh chắc dặc-biệt lắm nhỉ? thế bạn của Quỳnh ở ngay tại Toronto hay ở đâu?

- Dạ thưa ở Toronto, chắc ông cũng hay đến Toronto lắm phải không ạ?

- Vâng, bạn bè tôi ở đấy cũng nhiều, t
hành ra khi nào có dịp là bay sang ngay, nhưng thường thường tôi thích đi vào tháng 10, tháng 11 hơn vì ở đấy mùa thu rất là đẹp, lá vàng rơi đẹp đến nỗi ai cũng chờ mùa thu về để rủ nhau đi thưởng ngoạn cả, tôi nghĩ không ở đâu có mùa thu đẹp bằng ở Canada. Nếu có dịp, cô Quỳnh nên đến vào những tháng ấy một lần cho biết... à, thế Quỳnh ở Toronto thì bao giờ thì trở lại Mỹ?

- Dạ mùng 10 ạ.

Bên ngoài khung cửa nhỏ, những mảng tuyết bay lãng-đãng, những cụm mây xám làm thân tàu nhấp-nhô, lắc lư đến chóng mặt. Quỳnh nhắm mắt thật chặt, mím chặt môi như cố đè nén những khó chịu, những ngầy-ngậy bên trong. Quỳnh nghe tiếng Phú, nhưng không hiểu Phú đang nói gì, khuôn mặt nàng cảm thấy lạnh buốt, tiếng Phú lần này cất lên, nghe rõ hơn:

- Cô Quỳnh chóng mặt phải không?

Quỳnh gật đầu nhưng vẫn nhắm mắt. Phú bắt đầu lục lọi, chàng lôi ra một cái bao ny-lon nhét vào tay Quỳnh, nói nhỏ bên tai:

- Quỳnh cầm cái bao này để nếu cần thì dùng nhé!

Quỳnh lại gật đầu, mắt vẫn nhắm nghiền, con tàu lại lắc lư làm Quỳnh cuống quýt cầm cái bao Phú vừa đưa, gập người nôn thốc như không còn kềm chế được một thứ gì bên trong, mái tóc dài rũ xuống che phủ một bên mặt, Phú nhìn ái ngại, chàng đưa tay vén nhẹ mái tóc dài của Quỳnh kéo về phía sau. Một vài hành khách cũng đang ngất ngư như Quỳnh, thời tiết xấu nên máy bay cư dập dềnh y như xe cộ đang đi trên những con đường đầy ổ gà tại VN. Một lúc sau, Quỳnh cảm thấy dễ chịu hơn, dựa thẳng người ra ghế, Quỳnh nói nhỏ, giọng thật yếu ớt run run:

- Quỳnh xin lỗi ông Phú nhé...

Đôi mắt to tròn, long lanh nước trong khoé mắt làm chàng thoáng rung động. Phú cầm lấy chiếc bao trên tay Quỳnh cột lại và đi về phía sau. Một lúc chàng trở lại với một xấp khăn giấy tẩm ướt nước nóng trao cho Quỳnh:

- Quỳnh lau mặt cho tỉnh táo, đây cái bao khác, nếu cần cứ cho vào đấy, đừng giữ lại để thêm chóng mặt.

Quỳnh ngượng ngùng cầm lấy, ấp úng:

- Quỳnh làm phiền ông Phú quá, may có ông Phú bên cạnh, nếu không...

Quỳnh buông lửng câu nói, Phú nhìn nàng mỉm cười:

- Quỳnh đừng ngại, không có gì phiền cả, tôi nghĩ Quỳnh nên nhắm mắt lại một tý cho khoẻ. À, Quỳnh có cần uống nước gì không?

- Dạ không, cám ơn.

Quỳnh nhắm mắt, một lúc thiếp dần vào giấc ngủ, Quỳnh say sưa ngủ như không biết đang dựa đầu lên vai chàng. Khuôn mặt xanh xao phảng phất nỗi buồn sâu kín nào đó như vừa trải qua những tháng ngày xao động. Đôi mắt to tròn như thảng thốt như bám chặt lấy tâm trí chàng. Phú chợt nhớ đến Yến, Yến của một Pleiku má đỏ môi hồng, Yến của thành phố chỉ đi có 5 phút lại trở về chốn cũ. Yến của ngày xưa đó đã đem đến cho chàng những yên tâm, những hạnh phúc, những tiếng cười sau những ngày hành quân miệt mài cả tháng trong rừng. Yến của sau ngày 30/4 đen tối đã khóc vùi trong tay chàng, đã thề thốt đợi chàng về, nhưng chưa được một năm sau, Mẹ Phú trong một lần thăm nuôi cho biết Yến đã lấy chồng và đã xuất ngoại.

Phú đau từ đấy, cái đau như những vết thương hằn sâu mà bao nhiêu năm trời chàng muốn tẩy xoá, muốn quên mà vẫn chưa quên được. Phú đau với cái đau tang thương của đất nước trong một ván cờ không minh bạch, mà từ đó đã cuốn theo mốt tình chân thật của chàng. Mối tình mà Phú đã ấp ủ đặt để lên ngôi, đã tôn sùng như con chiên ngoan đạo. Nhưng rồi, đất nước mất, mất tất cả. Mẹ chàng cũng mất theo giòng đời nghiệt ngã đó khi Phú còn chưa biết được ngày về, khi Phú và những người cùng chung số phận đang khốn khổ còn hơn những tên tù khổ sai của giờ thứ 25 mà Phú đã đọc. Phú cảm thấy những người lính bất hạnh như chàng đã chơi-vơi hụt-hẫng trong một khoảng trống tối đen, như bị đánh lừa trong một trò chơi chiến tranh, mà cuối cùng đã bị bắt buộc phải buông súng đứng yên làm kẻ bại trận.

Khi trở về, Phú bàng hoàng lạc-lõng, vì tất cả không còn giống như ngày chàng ra đi, tất cả như đảo ngược. Phú cảm thấy nỗi đau, nỗi hận chồng chất lên nhau để rồi từ đó chàng dửng dưng với tất cả mọi chuyện. Nỗi buồn không lối thoát như đông cứng, như băng giá đến nỗi Phú không còn cảm giác về cái buồn cái đau được nữa. Giòng đời cứ từ từ biến đổi cũng như đã biến đổi cuộc đời chàng. Đã đưa đẩy sang đến bên này để trong một buổi dạ tiệc tất-niên do Binh-Chủng của Phú tổ chức. Phú đã bất ngờ gặp lại Yến, Yến đẹp kiêu sa, lộng lẫy trong chiếc áo dạ hội đắt tiền, ở nàng lấp lánh những trang sức mà Phú không thể nào biết được cái giá trị của nó. Phú nhìn Yến đăm đăm, ở Yến, chàng không còn thấy một tý gì của Yến ngày xưa. Yến đang tíu-tít cười nói bên chồng, bên bạn bè, bên những điệu nhạc quay cuồng, nhưng khi vô tình nhìn thấy chàng... Yến khựng lại sửng-sốt nhìn Phú, như không ngờ có ngày gặp lại chàng nơi miền đất xa lạ này. Phú cũng bối rối không kém vì sự bất ngờ... để tránh sự khó chịu cho Yến, cho chàng, nên Phú lặng lẽ bỏ ra về. Đêm ấy chàng đã uống rượu thật say, say đến không còn biết gì nữa. Hai tuần sau, Phú lặng lẽ rời bỏ thành phố hoa vàng, thành phố nổi tiếng có nắng ấm để đến một nơi mà Phú hy vọng sẽ không gặp lại.

Máy bay bắt đầu hạ xuống phi trường. Đường đi Toronto bao giờ cũng phải ngừng lại ở Chicago để đổi chuyến bay. Mọi người lục-đục đứng lên sửa soạn hành lý, Quỳnh vẫn say sưa ngủ, Phú đánh thức nàng dậy, Quỳnh mở bừng mắt ngơ-ngác:

- Ủa, đến Toronto rồi sao?

Phú mỉm cười:

- Không, mới đến phi trường Chicago mà thôi, Quỳnh có gì xách không đưa tôi xách hộ? Mình phải nhanh lên để kịp chuyến bay tới.

Quỳnh gật đầu, ngượng-ngùng vuốt lại mái tóc, màu đỏ đã ửng lại trên khuôn mặt buồn xanh xao lúc nãy. Quỳnh nhờ Phú lấy hộ cái va ly nhỏ ở phía trên và theo chàng bước ra khỏi máy bay. Phi trường Oklahoma vắng vẻ bao nhiêu thì phi-trường Chicago lại ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu. Đông như vậy mà Quỳnh vẫn không thấy một khôn mặt VN hay Á Đông nào khác. Bởi giờ này, có lẽ mọi người đã tìm về với gia đình, đang quây quần bên nhau vào những ngày cuối năm, chứ đâu có ai như nàng, như Phú là những kẻ bỏ đi, bỏ đi như trốn chạy sự cô đơn, sự trống vắng của chính mình. 15 phút sau, 2 người mới tìm được cổng vào của chuyến bay đi Toronto. Sau khi làm xong thủ tục, Phú đưa tay nhìn đồng hồ:

- Còn 10 phút nữa, cô Quỳnh có mệt lắm không?

Quỳnh đưa tay cột lại mái tóc, e-thẹn bào chữa cho sự mệt mỏi của mình lúc nãy trên máy bay:

- Dạ cám ơn, Quỳnh thấy đỡ nhiều lắm rồi, đi máy bay kỳ này ghê quá, cứ nghĩ đến phải lên máy bay là thấy sợ ghê đi, không ngờ Quỳnh lại làm phiền ông Phú đến như vậy!... Cũng may là hôm nay gặp được Ông Phú, nếu không... đi máy bay kiểu này chắc Quỳnh đứng tim mất thôi.

Phú ngồi xuống bên cạnh vui vẻ:

- Đâu có gì mà Quỳnh cứ phải bận tâm. Phải nói là hôm nay hên lắm tôi mới được xếp ngồi bên cạnh Quỳnh đấy chứ, vả lại hôm nay thời tiết xấu quá thành ra hành khách ai cũng mệt cả.


Chợt có tiếng thông cáo lồng lộng trong máy, tất cả các chuyến bay đều bị đình lại cho đến sáng hom sau vì thời tiết xấu. Quỳnh hoảng hốt nhìn Phú rồi lại nhìn lên bảng, chỗ đã xếp chuyến bay nhưng không có giờ khởi hành. Phú thấy đôi mắt lo sợ của Quỳnh, chàng cười trấn an:

- Không sao đâu, Quỳnh đừng lo, chuyện đình lại những chuyến bay như thế này là chuyện thường xảy ra vào mùa đông khi gặp thời tiết xấu, không sao cả, thế nào rồi ngày mai mình cũng đến được Canada mà. Bây giờ mình ra phố kiếm tiệm VN nào đó ghé vào rồi trở lại đây. Quỳnh nên ăn một tý gì cho ấm bụng... vả lại tôi cũng đã thấy đói bụng lắm rồi.

Quỳnh ngập ngừng:

- Nhưng tối nay giao thừa, đâu có tiệm nào mở cửa?

Phú ngẩn người gật đầu:

- Ừ nhỉ, tôi quên mất, nhưng mình cũng cần phải ra khỏi nơi này đã, không lý mình cứ ở đây suốt đêm sao? không có tiệm ăn VN thì cũng có những tiệm ăn khác vậy, chàng đùa tiếp:

- Mình vừa ăn, vừa nói chuyện, vừa đón giao thừa luôn.

Quỳnh mỉm cười với câu nói của Phú nhưng vẫn bối rối vì chuyến bay bị đình lại. Quỳnh chán nản đứng dậy đeo túi xách lên vai bước bên cạnh Phú. Những bước đi chậm rãi, không còn hấp tấp vội vàng như lúc vừa ra khỏi máy bay. Xe taxi đưa 2 người ra phố, thành phố Chicago quá đẹp và sầm uất với những building cao đồ sộ, không bì với một nhóm building cao của thành phố Quỳnh đang ở. Phú đưa nàng vào tiệm ăn trên một toà nhà cao chót vót, ở đó Quỳnh có thể nhìn thấy khắp thành phố Chicago mà không cần phải đi đâu cả.

- Quỳnh gọi thức ăn nhé!

Quỳnh lắc đầu từ chối, nàng đẩy thực đơn về phía Phú:

- Quỳnh không rành lắm đâu, Ông Phú gọi hộ cho Quỳnh đi.

Phú gọi thức ăn và một chai Champagne, thấy Quỳnh ngạc nhiên, Phú giải thích:

- Mình phải uống Champagne để đón giao thừa chứ, nhưng nếu Quỳnh không thích thì thôi vậy.

Quỳnh vội vàng lắc đầu mỉm cười:

- Dạ không, không sao cả, ông Phú cứ tự nhiên.

Phú rót rượu ra 2 ly, chàng đưa cho Quỳnh một ly và bảo:

- Mình cụng ly nhé, trước hết chúc Quỳnh một năm hoàn toàn mới, một năm thật nhiều may mắn và toại ý những gì mà Quỳnh đang ước muốn, sau là để kỷ niệm chuyến bay bất ngờ này.

Quỳnh đưa ly lên đủ để chạm nhẹ vào ly chàng, e-thẹn nói khẽ:

- Vâng, Quỳnh cũng xin được chúc Ông Phú như vậy.

Quỳnh nhấp nhẹ, một chút ấm áp nồng nồng trong cổ, bên ngoài bầu trời tối đen, không một vì sao, những ánh đèn đường, đèn từ những toà nhà cao hắt ra chiếu vào nhau, vào những thân cây trụi lá, vào những mái nhà mà cơn gió lạnh vừa qua đã làm đông đá những giọt nước rơi lơ lửng trông như những giọt thạch nhũ lấp lánh thật đẹp. Quỳnh như mất hút trong khung cảnh thần tiên huyễn hoặc đó. Quỳnh nhớ đến những cái tết khi còn bé, khi lớn lên, nhớ đến Mẹ giờ này đang lẻ loi đón giao thừa một mình không có bố bên cạnh. Đến những con đường rợp lá, đến những lần theo người ta lên Chùa hái lộc đầu năm. Quỳnh nhớ đến tấm thẻ bài, chiếc giây đeo cổ mà sau cái ngày đổi đời, có một người đến trao và báo tin người ấy đã bỏ đi, đã đi thật xa, đi đến một nơi mà Quỳnh không thể tìm kiếm được. Đầu óc Quỳnh miên man, Quỳnh lại chợt nhớ đến hiện tại, đến chuyến bay hôm nay, đến người đàn ông đang ngồi trước mặt. Người đàn ông xa lạ mà Quỳnh vừa mới gặp, vừa mới quen nhưng đã có những cử chỉ lo lắng, săn sóc làm Quỳnh cảm động bối rối, một cái gì đó hình như không rõ rệt lắm trong Quỳnh.

- Quỳnh, Quỳnh đang nghĩ gì mà thừ người ra thế, ăn đi chứ!

Quỳnh giật mình quay lại khẽ nói:

-Quỳnh vừa nghĩ nếu trong chuyến bay này không có Ông Phú, không biết Quỳnh sẽ ra sao khi gặp thời tiết như thế này. Chắc Quỳnh sẽ hoảng sợ mà chết đi được.

Phú bật cười, chàng đùa:

- Vâng, tôi cũng nghĩ nếu không có Quỳnh hôm nay, tôi cũng không biết phải đón giao thừa như thế nào nữa!

Quỳnh đỏ mặt đưa ly rượu lên môi hớp nhẹ, Phú ân cần:

-Quỳnh ăn đi chứ, nãy giờ Quỳnh ăn ít quá.

Quỳnh xếp khăn bỏ lại trên bàn:

-Dạ cám ơn, Quỳnh dùng như thế đủ rồi ạ.

Nhìn đồng hồ Quỳnh hỏi:

- Đã đến giờ mình trở lại phi-trường chưa?

Phú nhìn nàng mỉm cười gật đầu, nụ cười âu yếm làm Quỳnh đỏ mặt, cuống quýt ngượng ngiụ, giả bộ kiếm đôi găng tay trong bóp và sửa lại chiếc khăn quàng cổ.

Đường phố vắng tanh, chờ mãi không thấy một chiếc taxi nào chạy ngang, 2 người thả bộ dài trên con đường trước mặt. Tuyết không còn rơi, những con gió lạnh buốt lúc nãy cũng không còn nữa. Quỳnh chợt trượt chân, lao-chao xuýt ngã, Phú nhanh tay đỡ lấy, ôm Quỳnh trong tay một lúc cho Quỳnh lấy lại sự thăng bằng. Hoi thở ấm với mùi rượu thơm của Phú vừa phả lên mặt làm Quỳnh choáng váng.

Phú âu yếm khẽ bảo:

- Quỳnh bước cẩn thận, khéo ngã.

Mặt Quỳnh đỏ bừng, cúi đầu bước đi, tay Phú vẫn đỡ nhẹ sau lưng Quỳnh. Một lúc, chàng chợt dừng lại, xoay Quỳnh sang đối diện hẳn với mình, nhìn thật sâu trong mắt Quỳnh, Phú hỏi:

- Quỳnh, Quỳnh có bao giờ tin vào định mệnh không?

Quỳnh ngước mắt nhìn Phú ngỡ ngàng, bối rối trong giây lát rồi lặng lẽ gật đầu. Hơi thở ấm, mùi đàn ông, lẫn với mùi rượu thơm của Phú làm Quỳnh hồi hộp đến khó thở, chân Quỳnh như đứng không muốn vững. Quỳnh chợt thấy một cái gì đó mới lạ vừa xảy ra, vừa đến với nàng. Quỳnh chợt quên, quên tất cả, quên tấm thẻ bài, quên luôn cả ngày tháng rong rêu vàng úa. Đôi mắt to tròn không còn thấy thảng thốt như con chim bơ-vơ lạc lõng lúc Phú mới gặp. Càng nhìn Quỳnh, Phú càng thấy tim mình đập nhanh. Chàng rung động đến cuống quýt, sự rung-động mà Phú đã thiếu vắng từ lâu, ôm Quỳnh trong tay, Phú từ từ cúi xuống... Bầu trời chợt cao hơn, trong vắt hơn và hình như có vài vì sao vừa xuất hiện trên bầu trời còn đen thẫm. Phú cảm thấy vui, Phú cảm thấy yêu đời, kéo đầu Quỳnh sát vào vai chàng, hai người bước đi, những bước thật chậm, Phú chợt hát lên nho nhỏ:

"Anh đến thăm Em đêm 30, còn đêm nào vui bằng đêm 30, Anh nói với người phu quét đường, xin chiếc lá vàng để làm bằng chứng yêu Em..."260







Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi con. Chắc con rất ngạc nhiên. Con đang xót xa vì thương cha cô đơn, ân hận vì không được ở gần cha để săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao có sự ngược đời. Con hãy bình tĩnh nghe cha nói.

Là con gái lớn cuả một gia đình mất mẹ, con đã chịu bao nỗi thiệt thòi. Mẹ chết khi con mới lên chín và gia đình chỉ gồm một người cha và ba đứa con dại. đâu có còn ai để trông cậy nhờ vả? Thường thì một người nghèo khó nhất cũng có ông hay bà, chú bác hay cô dì cậu mợ, không họ gần thì họ xa, ở kề cận láng giềng. Ðằng này gia đình ta vừa đình cư ở thành phố mới được một năm, chỗ láng giềng qua lại không hơn hai hay ba nhà lân cận.

Cha đi dạy học ở trường tư, lương tính trả theo giờ, nghỉ dạy giờ nào miễn trả giờ ấy. Ðã vậy mà chỗ dạy đâu có gì bảo đảm. Ai củng có thể thay thế cha được bất cứ lúc nào. Nhà trường là một cơ sở của Hội Phật Giáo mà má con và phía ngoại con lại là người Thiên Chúa Giáo. Rồi thằng em của con, mãi lên tám mới được chính thức đi học và phải cho học ở một trường tư thục gần nhà. Lại nhằm một trường cuả Thiên Chuá Giáo. Cha biết có bao nhiêu khó khăn rối rắm cứ tuần tự dệt thành tấm lưới bủa vây cha. Cứ mỗi cuối năm học là chuẩn bị nhận một bức thư "cám ơn" của Ban quản trị nhà trường. Cứ đầu năm học là hồi hộp chờ đợi coi niên khóa này mình được phân phối cho dạy bao nhiêu giờ một tuần. Có những lần phiền muộn, cha lặng lẽ ra ngồi ở cuối sân, lần nhổ những bụi cỏ dại, cho quên đi, cho lắng xuống, cho tan loãng... Cha tránh không dám gặp các con ngay lúc đó, sợ đang cơn bực bội phiền muộn, nếu lở gặp điều trái ý mà không giữ được bình tĩnh.

Vậy mà cái "lỡ" đã xảy ra. Hôm đó cha vừa về, vừa bỏ mũ, vừa tháo nịt thì con chạy lên mét cha nghe cái gì đó. Ðang uất ức vì việc ở trường, con lại gây thêm điều rắc rối nên sẵn cái nịt trên tay cha vụt con một cái. Cha vội vàng dừng lại, nhìn con mở to mắt, mặt nhăn đau đớn... Con ơi, hình ảnh đó cứ theo mãi cha, ám ảnh cha suốt hơn ba mươi năm nay.

Có thể là con đã quên, chắc chắn là con không giận, nhưng mà cha thì cha cứ nhớ. Con có lỗi, bắt nằm xuống đánh năm roi ba roi, cách phạt đó ngó vậy mà vẫn thanh nhã. Vì đánh có kèm lời dạy, có nảy sinh lời hứa. Cái roi bẻ từ một cành cây còn dính đôi lá xanh non vẫn được nhìn như một người bạn chơi của đứa nhỏ phạm lỗi. Chớ cái nịt! nó được chế tạo ra hàng loạt để cột, để siết để bó... nó lạnh lùng, nó vô tri, nó mang dáng vẻ một dụng cụ giảo hình.

Sao cha nỡ có hành động tàn bạo như vậy với con? Mới lên chín, con đã nhận trách nhiệm lo lắng cho gia đình. Con tính tiền chợ, con trả tiền điện, con đưa tiền rác, con ngó chừng em, nhắc chị Hai tắm em, tự tay bôi thuốc vào mụn lở cho em. Rồi cái nhìn đi xa hơn một chút: dọn dẹp cái này cho gọn gàng, xếp đặt cái kia cho tươm tất.

Con đâu có hưởng nhiều êm đềm tuổi thơ với cha? Lúc nhỏ thì con lúc thúc bên gối ông bà. Có lẽ đó là những ngày ngọt ngào nhất của con bởi ông bà thương vồ vập, đòi cái gì cũng có, muốn cái gì cũng cho. Sáu tuởi theo cha mẹ về Ðà Lạt con phải một mình coi chừng em giúp mẹ. Rồi mẹ con bệnh, gia đình bị xé nát, con lại theo ông bà về quê, cha đưa mẹ xuống Sài Gòn chữa bệnh. Ba năm sau mẹ con mất, con biến thành người quản lý của một gia đình.

Chín, mười tuổi là cái tuổi nhớ trước quên sau, cái tuổi miệng hay ăn vặt và hát nghêu ngao, là dàn bày đồ chơi ra rồi bỏ vãi đó không dẹp, là tuổi đi chơi phố có mẹ cầm tay. Con thì không, con phải đứng vững như một thân cây che hai cây nhỏ đứng kề. Không có mẹ nhẹ nhàng vuốt ve và nói lời dịu ngọt, không có kinh nghiệm về cái không khí yêu thương, con phải tự tìm lấy. Ði chợ qua hàng trứng vịt lộn, thấy có cái trứng quá già bị nứt phát ra tiếng kêu chíp chíp từ bên trong, con nài nỉ mua về gỡ con vịt bé xíu ra nuôi. Ngày hè năm đó cha có việc phải đi Quảng Ngãi nửa tháng, nhà vắng cha, con ghé chợ mua về một con heo để nuôi cho vui nhà, săn sóc chơi đùa với heo để quên niềm cô quạnh.

Sao nỡ giận con, trách con mà tàn bạo với con? Ðâu có dễ để xử sự minh bạch, giải quyết rạch ròi ở đời? Thì ngay chính cha: chị Hai cầm cũng số tiền đó đi chợ mà có bữa cho ăn được, có bữa chẳng ra chi, nhưng cha biết nói sao? Con thúc cha nói nhưng cha cứ ngại ngùng, sợ lỡ chị giận, chị bỏ đi nơi khác. Từ khi mẹ con mất, cha thêm rụt rè cam phận, đã có quá nhiều âu lo và bổn phận dành cho cha rồi mà. Thằng em của con mới vừa bị sốt, cha vẫn phải đi dạy cho hết buổi rồi đạp xe hấp tấp về nhà, kêu xích lô chở nó đi bác sĩ. Ðầu năm, con út bị chó nhà bạn cắn nơi đùi, vậy là cha suốt đêm nằm lo lắng, mãi đến khi trở mình mới hay nước mắt đã chảy đầm đìa.

Cha có cảm tưởng là chưa bao giờ con nhận một sự dịu dàng nào từ cha. Một người đàn ông nghiêm trang thật khó biết nên dịu dàng như thế nào. Không thể pha chế giọng nói, "biên tập" câu nói, hoa hòe điều nói. Cha chân tình thường chỉ lo nghĩ đến bổn phận nên nhiều khi quên mất sự dịu dàng. Thương yêu tha thiết trong lòng nhưng khó tìm cách để biểu hiện cho tinh tế, tránh xa công thức, thành ra cha con ta sống âm thầm, cha gắng lo sao cho các con không thiếu thốn về vật chất, được đầy đủ về học vấn. Nhưng còn về tình cảm thì, mất đi một người mẹ là tối sầm hết một nửa bầu trời. Cha cố gắng giữ cho nửa còn lại được sáng bằng cách ở vậy nuôi con. Nếu tục huyền, sợ chỉ còn một phần tư còn sáng. Nhưng giữ cho được một nửa cũng không dễ, bởi bao nhiêu thiếu sót, bao nhiêu khuyết điểm phần cha! Chỉ cần một nét mặt trầm ngâm, một cái nhíu mày u uất là đủ làm tắt đi nụ cười nơi mắt các con. Chỉ lỡ dùng một tiếng la rầy hơi nặng là tiếng đó cứ đè nặng dài ngày trên tâm hồn các con.

Bức thư ân hận của nhà văn Livingstone Larnod đã làm xúc động những người cha. Người cha trong truyện đã rầy con vì cách con lau mặt, mắng con vì giầy không đánh bóng, la con vì trong bữa ăn sáng đã bị đổ sữa, ngồi tì tay lên bàn, nhai không kĩ càng. Khi con chào đi học, cha lại rầy "đi thẳng lưng". Trên đường ở trường về con lại bị rầy vì chơi bi dọc đường để làm rách bí tất. Buổi tối con bước vào phòng, giọng cha còn bất bình hỏi "Cái gì?", và bất ngờ con chạy lại ôm chặt cổ cha, đầy tình thương yêu rồi bỏ chạy lên gác. Người cha bất giác thấy cái tâm hồn đại lượng của con, thấy cái hẹp hòi của mình, - con còn con nít mà cha bắt làm người lớn,- cha ngồi bên giường nhìn con ngủ mà lòng đầy ân hận.

Con ơi, những cái lỗi dồn dập trong một ngày của người cha Larnod vẫn quá nh%
E11230




Em tự ngàn xưa chuyển bước về
Thuyền trao sống mắt dẫn trăng đị
Những dòng chữ lạ buồn không noí,
Nét lưả bay daì giấc ngủ mê,

Em đến, mong manh vóc ngọc chìm,
Tàn canh hồn nhập bóng trăng im.
Ta van từng đoá sao thuỳ lệ,
Nghe ý thơ sâù vút cánh chim.

Mươì ngón tay dâng lửa nguyện câù,
Hơĩ ơi! Hồn chuyển kiêp' về đâu?
Ta xin giữ trọn lòng trinh bạch,
Ngưỡng vọng Em như Nữ Chuá Sâù.

Em đến từ trong giấc hỗn mang,
Lơì ca không mở cưả thiên đường.
Thơì gian bốn phiá nhoà gương mặt,
Aỏ tưởng nghiêng vầng trán khói sương.

Em vơí ta chung một hạn kỳ,
Hoá thân vaò nét chữ cuồng sị
Chiêm bao động gót giâỳ mê hoặc,
Trang giấy bay muì tóc aí phi.

Net chữ hoang sơ hiện dáng ngươì,
Ta ngừng hơi gọi: Diệu Huyền ơi!
Mắt ai tinh lạc xanh vần điệu?
Tuyết gợn làn da bóng nguyệt trôi.

II

Em đến vầng trăng bỗng toả hương,
Quen nhau, ngờ truyện rất hoang đường.
Trang thư xoã tóc cươì e lệ,
Nét chữ thu gâỳ, vóc ngậm sương.

Thăm thẳm chìm sâu cõi mộng naò?
Nưả chiêù huyền hoặc, nửa thần giao,
Mắt xanh Em đến như màu khoí,
Một thoáng hồng nhan ngọn gió traọ

Cặp mắt nhìn nhau có hẹn thề?
Não lòng - ôi khóc ngọc lưu ly!
Baì thơ khát vọng thành mưa gió,
Anh gưỉ vaò trong những giấc mệ

Giấy mực say nồng hương tóc Em,
Thương qua dòng chữ ngón tay mềm.
Vệt son loáng nét môi cuồng vọng,
Lắng tiếng xuân cươì, chết môĩ đêm.

Chết giưã mùa xuân, lạ cuộc đơì,
Tên Em còn đượm ngát vành môị
Lung linh sao rụng, mưa hàng chữ,
Chợt sáng hồn Em đáy mắt tôị

Trăng bỗng u huyền, nắng cô sơ,
Em về, nếp aó rộng hư vộ
Khói sương thạch động xa vầng trán,
Ta lạc vaò trang tiêủ thuyết xưạ

Mây quấn vòng lưng, tóc xoã vai,
Hồn lên thao thức búp tay daì.
Khoá xuân trinh bạch trăng làm gaí,
Em lẩn vaò Thơ, trốn Mộng hoaì.

Gôí rợn mình hoa, ửng má hồng,
Lòng Em - Ôi bí mật thâm cung.
Thịt da hương phấn, ngây dòng mực,
Nét bút đa tình, cánh bướm rung.

Trắng muốt tâm linh vạt aó sâù,
Canh gà chưa rụng đã xa nhaụ
Thương cho xác bướm hai lần mộng,
Đành hẹn baì thơ gưỉ kiếp sau.

Tôi sẽ đi như giấc mộng buồn,
Và đi như vệt nắng cô đơn.
Kinh thành hoang phế, Em ngôì lặng,
Maí tóc còn vương một chút hồn....

976




Một bóng đen xuất hiện nhô ra, ngay giữa nghĩa địa vào một đêm mùa đông. Người gác cổng nghĩa địa đi tuần giựt nẩy mình khi nhìn thấy một bóng đen đang đứng bất động. Phải chăng đây là ma, hay là một trong những tên thường phá mộ, ăn cắp nữ trang đem về bán lại ? Nếu thật như vậy tại sao tên này có dáng điệu thật tức cười ! Hắn đang mân mê bó hoa bằng nhựa trên tay. Miệng thì thầm như đang nói chuyện với ai !

Người gác cổng hồi hộp,nhẹ nhàng đến sát sau lưng bóng đen.Thình lình bóng đem quay lại, quật người gác cổng xuống đất. A đây là người chứ không phải ma. Nghĩ vậy người gác cổng đưa chân, đá vào bóng đen. Sau một cuộc vật lộn ngắn, người gác cổng kéo ngược, cái bóng kia lên. Bóng đen đứng yên không cựa quậy. Cuối cùng người gác cổng buông hắn ra, hắn ta nằm bệt dưới đất. Hắn ta là một người dơ bẩn, mặc cái áo vết cũ rách bươm, không có sơ mi, để lộ bộ ngực trần ốm o gầy mòn. Cặp mắt điên cuồng, với bộ râu xồm mọc lộn xộn, bụi bặm dính đầy. Người gác cổng hỏi tên anh ta hai ba lần, nhưng miệng anh ta câm như hến.

Không cách gì nói chuyện với hắn được; với mỗi câu hỏi, hắn đều nhìn người gác cổng, như trời sập trên đầu hắn. Thôi đúng rồi ! đây là một tên điên trốn ra khỏi nhà thương điên ! Chả cần gì mà báo cho cảnh sát, mình chỉ đưa hắn lại nhà thương điên là đủ rồi ! Nghĩ vậy người gát nghĩa địa đưa anh ta đến nhà thương điên gần đó .

Ông giám đốc nhà thương điên nói với người gát nghĩa địa : « Thành phố này, có rất nhiều lọai người điên, nhưng người điên này là một ngươi điên dư thừa trong đám người điên kia. Có nghĩa là người điên này không có tên tuổi ». Và ông đang tìm cách để biết người điên này có gốc gác từ đâu ra. Oâng giám đốc hỏi người vô danh : « Anh anh tên gì ? từ đâu đến ? bao nhiêu tuổi ? » Anh chàng điên kia như cái bóng, nhìn ông giám đốc hòan tòan không hiểu gì cả. Rồi anh ta bắt đầu run lên và miệng lắp bắp :« Tôi chả biết…Tôi chả biết …!» Chỉ một câu duy nhất mà hắn ta nói. Ngòai ra không nói câu nào hơn nữa.

Ông giám đốc nghĩ đây là người điên trong trạng thái bị «sốc» nên cũng không mấy nguy hiểm, chỉ cần cho anh ta chút thuốc an thần và nghỉ ngơi, chờ người thân trong gia đình đến rước hắn về là xong. Người ta dành riêng cho hắn một căn phòng. Thế rồi anh chàng điên này lăn ra ngủ. Ngủ đêm rồi ngủ ngày. Tỉnh dậy hắn đòi ăn. Ăn thì ăn như hạm, làm như đói lâu ngày lắm rồi ! Ăn xong hắn lăn ra ngủ như chết. Bất ngờ một hôm giật mình thức dậy, hắn ngơ ngác nhìn chung quanh :« Ơ hay ! các ông là ai ? Tôi đang làm gì ở đây ?» Đây là lần đầu tiên hắn biết đặt câu hỏi. Khi nghe hắn hỏi, người ta nghĩ là hắn bắt đầu tỉnh lại. Hắn tiếp tục hỏi :« Cái nhà này là cái nhà gì vậy ? » Những người làm việc trong nhà thuơng nghĩ hắn chỉ là một người điên, nên hỏi lại tên hắn. Hắn ngơ ngác :«Tên tôi hả ? tôi không biết !» Rồi hắn cố giương đôi mắt nhìn đăm đăm vào cõi hư vô. Mặt hắn nhăn nhó, tay vò đầu bức tóc như cố nhớ lại mình là ai, vì mỗi người đều có tên, ai hỏi tức khắc mình trả lời ngay ; đó là phản xạ tự nhiên. Người vô danh này không nhớ đến tên mình, bao nhiêu tuổi, hơn nữa không biết mình từ đâu tới , và ở trong nghĩa địa khi về đêm ăn cắp hoa giả để làm gì ? Người vô danh, vô danh chính với anh ta nữa .

Ông Giám đốc nhà thương kết luận, anh chàng này đã mất trí và, quyết định đăng hình sơ lược, đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Trước khi đăng hình anh ta lên báo, người ta tắm rửa, cắt tóc và cạo râu anh ta sạch sẽ cho bớt hốc hác xanh xao, vì râu tóc lổm chổm như người rừng của thời tiền sử, nhìn không ra là con người nữa. Sau khi tắm rửa cắt tóc, anh ta đã trở lại con người, nhưng khuôn mặt cũng còn ngơ ngác, với đôi mắt trũng sâu lúc nào cũng nhìn thẳng. Trong đôi mắt đó, nguời ta không thể tìm thấy một kỷ niệm, một lý lịch nào cả. Đôi mắt trống rỗng, của người điên lang thang.

Một tuần lễ sau khi đăng hình người điên trên báo.ŽÔng Giám đốc nhận được một loạt thư gởi đến, có người đã nhận ra con người đi lang thang, không nhà không cửa này, trước đó là một người giàu có sang trọng và rất thông minh, được nể trọng nhất tỉnh. Đó là ông giáo sư nổi tiếng, dạy môn toán học tên Henry Mager dạy ở đại học Paris 6 (Pierre et Marie Curie). Nhưng nghe đâu ông giáo sư này đã chết rồi mà ? Hay đúng hơn ông ta đã mất tích, cách đây 10 năm ? Lúc đó có vụ mặt trận. Ông ta đã đầu quân trong mặt trận đó và ông bị mất tích. Những đồng bạn ông đã kết luận, ông ta đã chết trận, mất tích không tìm thấy xác trong bom đạn.

Ông giám đốc nhà thương điên, ngắm nhìn người đàn ông điên, một cách chú ý đặc biệt. Càng nhìn kỹ ông ta càng thắc mắc tự hỏi : Quái lạ, nhìn người này đâu có vẻ gì là một ông giáo sư đại học, mà cả thượng tầng trong tỉnh đều biết ! mà ông ta làm gì trong nghĩa địa với bó bông nhựa ? cả với cái tên Henryï …Nghĩ rồi ôâng giám đốc đến bên cạnh người điên hỏi dò :« Này anh, cái tên Henry có nhắc đến một kỷ niệm nào không ? » Người đàn ông vẫn thản nhiên lặng thinh, như chưa bao giờ nghe đến tên đó bao giờ. Anh ta mệt mõi, mặt phờ phạc tái xám. Ông giám đốc lại suy nghĩ, không biết anh ta có phải là Henry không ? Thôi tạm cứ để cho hắn ta nghĩ ngơi, thêm một thời gian nữa sẽ hay .

Gã điên lại ngủ li bì, cả ngày lẫn đêm bỏ cả giờ cơm. Anh ta ngủ bù lại những năm tháng, thiếu ngủ thiếu ăn. Anh ta ngủ để quên đi điều gì đó. Hay ngủ để nhớ lại những điều gì đã quên ? Có thể anh ta biết rằng khi ngủ, sẽ quên đi khi anh ta tỉnh dậy !

Những ngày kế tiếp, có một người đàn ông, mặc quân phục đến tại nhà thương điên, xin gặp ông giám đốc. Đó là Thiếu tá Jean Louis . Đi theo sau người đàn ông, là một người đàn bà sang trọng. Mặc quần áo đen, đeo kiến đen. Một màu đen để tang. Ông thiếu tá nhìn hình người điên trong báo, nhớ lại người bạn thân tình đồng ngũ cùng chiến đấu với mình, đó là giáo sư Henry và cũng là người bạn cũ thời còn đi học. Sau đó một người ra nhà binh thành thiếu tá. Một người thành giáo sư đại học. Rồi hai người cùng đi đánh giặc chung.

Hai người bạn gặp lại nhau. Ông thiếu tá chạy đến ôm chầm anh chàng điên kia kêu lên :«Anh bạn Henry của tôi ơi ! » và anh chàng điên kia cũng chạy lại ôm chầm lấy ông thiếu tá. Anh chàng điên này bỗng òa khóc, vui mừng đã gặp lại người bạn thân của thời xa xưa. Ô ! nhưng tất cả không được rõ ràng, trong tâm trí anh ta. Lúc đó ông thiếu tá phải nhắc chuyện này chuyện kia, để g217






Bà tôi sinh tám người con, chết sáu còn hai. "Năm dì Duyên được mười chín tuổi, tôi đầy mười sáu thì bà mất. Bữa ấy trời mưa to, ảm đạm. Cây cối trong vườn xơ xác, lá rụng bời bời vào sân. Bác Nhiên bấm đốt ngón tay, lẩm nhẩm rồi kết luận "bà cụ chết giờ không tốt. Nhưng thiêng lắm. Cô đem miếng xô trắng, treo cao trên bàn thờ thì mọi chuyện sẽ qua".

Cũng năm ấy, cha bỏ mẹ. Với một vài lý do nhập nhằng không giải thích được, Mẹ sống vật vờ, lãnh đạm. Một ngày ngủ dậy, tôi đã thấy trên bàn thờ treo một tấm vai xô trắng toát.

Nhà từ đó u ám khói nhang. Những tờ giấy bìa xanh đỏ dán đầy trên tường như hiệu ăn của dân Ba Tàu. Không khí lúc nào cũng lẳng lặng. Ba người đàn bà như ba cái bóng. Sống và chạy vòng quanh trong những thế giới rất riêng của mình.
Mùa mưa tàn. Trời trong nhưng lạnh lẽo. Cây mận bị sâu đục thân lụi dần, nằm còng queo một góc vườn đầy cỏ dại. Buổi sáng đi học, tôi dắt xe qua, thấy vướng víu khó chịu như bà đang ngồi xếp bằng trên tràng kỷ, nhìn tôi trách móc "Cái cây nó chết kìa cháu" Tôi cúi đầu, tự an ủi "Sống chết là quy luật mà". Bỗng nhiên lại giật mình nghĩ, một ngày nào đó, mình cũng sẽ chết mà chưa kịp làm được gì, như cái cây mận dài này.


*
* *


Dì Duyên càng lớn càng đẹp. Mắt thanh mày ngài. Mặt trắng xanh lấp lửng giữa mớ tóc bụi đời hất ngược về phía sau. Dì đam mê nhiều thứ nhưng cũng gần như dửng dưng với tất cả. Trong cuộc sống của dì có vài vệt đen mờ chen chúc với những vệt đỏ ngang dọc chỉ đợi có dịp là bùng lên thành lửa thiêu rụi mọi thứ. Với dì, tôi là một con chíp hôi. Không hơn không kém. Siêng học, ngớ ngẩn đến buồn cười và tội nghiệp. Với tôi, dì không xa lạ cũng không gần gũi. Lối sống của dì như một người đồng bóng. Cái gì cũng cho quá lên một tí để rồi tự giễu cợt mình. Tôi thấy lạt nhạt. Chỉ có đôi khi bỗng nhiên thèm muốn được như dì. Vứt bỏ mọi thứ về sau. Sống bỏ đời để thanh thản hơn. Nhưng rốt cục, tôi vẫn là đứa con gái ngoan và yếu đuối. Tôi luôn sống trong những sự yêu ghét của tôi cũng nằm trong một quĩ đạo không thay đổi được.

Một vài lần, tôi trèo lên căn gác xép của dì. Căn phòng nhỏ xíu với ô cửa hình vuông trông thẳng lên trời, treo đầy những bức tranh dang dở. Hoặc nếu xong, cũng mờ mịt khó hiểu. Trên kệ sách ám bụi, những cuốn kinh thánh, nghiên cứu đạo Phật nằm lẫn giữa mớ kiếm hiệp Kim Dung, truyện cổ điển đóng gáy dày cộm và vài cuốn coi bói tay. Dì ngồi vắt chân lên bàn, với tay bật cassette. Một thứ âm thành nặng trịch, cuống quýt thoát ra, đong đưa trên những miếng mạng nhện to tướng. Dì nhìn tôi thăm dò "Phê không?" "Cháu không thích lắm. Nghe nhạc êm dịu đỡ hơn" "Còn những bức tranh.

Chúng đẹp phải không? - Dì tỏ vẻ lơ đãng - kỷ vật của vài người bạn " Tôi cười, không gật cũng không lắc. "Ðẹp. Nhưng khó hiểu quá dì ạ" Dì cũng cười, khoé miệng nhếch lên chua chát "Cần gì hiểu. Thấy đẹp đã đủ lắm rồi" Dì đưa mắt nhìn lên ô cửa. Chếch về phía bên trái, chỉ còn lại một ngôi sao le lói sáng. Dì khe khẽ thở dài "Sao nó cô đơn thế". Rồi dì lẩm nhẩm mấy lời nhạc lạc hết cả điệu, mắt vằn vện nước. Lát sau đã thấy dì ngoẹo đầu ngủ, mắt môi khép dài. hệt như tuổi trẻ của mẹ đang bình yên nằm đấy.

*

* *


Dần dần tôi cũng hiểu. Mẹ là một người cô đơn. Mẹ bám vúi vào thần thánh, vào tất cả, trừ tôi với dì. Nhưng mẹ vẫn cô đơn. Nỗi hoài nhớ những ngày cha còn ở bên mẹ đã làm cho mẹ trở nên già nua. Người đàn ông ấy không quay lại. Còn mẹ vẫn chờ đợi và hy vọng "Chị đừng nên khổ sở vì một thằng đàn ông như thế" Dì trách mẹ không thương xót. "Lão có quay lại cũng không mang theo điều tốt lành gì". Mẹ phản đối yếu ớt "thì tao có dằn vặt gì đâu. Nhưng sống phải biết tha thứ". Dì bĩu môi, quay ngoắt mặt ra cửa. Khi ấy chúng tôi đang ngồi trên tràng kỷ. Ngoài kia chiều xuống dần. Như thường lệ, bà trở về, áo lụa trắng, tóc vấn hai vòng trên đầu, đi lang thang ngoài vườn. Bà về thăm kỷ niệm nhưng biết rằng không bao giờ bà đụng được đến chúng nữa. Dì lại hục hặc ho, thông báo "Ngày mai em đi thực tế với mấy thằng bạn. Sống mãi ở thành phố dễ bị stress lắm". Mẹ lắc đầu "Vớ vẩn. Con gái lớn không lo lấy chồng, chỉ ham bay nhảy. Mấy đứa trẻ chúng mày, nông nổi và bộp chộp". Mẹ cau có "Ðàn bà, phải dịu dàng, đảm đang. Chứ như mày...". Dì bướng bỉnh hất mái tóc xoã xượi ra sau "Chị không cho em cũng đi. Dịu dàng, đảm đang như chị, lão ấy có ở lại đâu". Mặt mẹ rũ ra tái ngắt. Tôi nhìn dì im lặng. Nếu là dì, chắc tôi cũng sẽ đi. ít ra cũng có một thay đổi mới mẻ nào đó trên cuộc sống đơn diệu của tôi. Ðể sau này, tôi còn có vài thứ đáng giá được liệt vào bộ kỷ niệm.

*
* *

Hội đến, ngồi thẫn mặt ở phòng khách, giữa những bông thạch thảo loăn xoăn cánh héo. Tôi không thích Hội, cũng không muốn làm Hội buồn. Thấy anh chàng sống thật vô vị. Luẩn quẩn trong sách vở. Nhìn đời qua hai mảnh ve chai lọc bụi trong suốt. Hội lúc nào cũng như trôi lênh phênh trên bề mặt của cuộc sống. Nói như dì, nó là một thằng ngố đáng thương.

Tôi lẩm bẩm "mẹ ra bảo con mệt, không tiếp chuyện được". "Ðừng làm thế. Mình là người lịch sự - mẹ thoăn thoắt xếp lại mớ vàng mã trên giường - ra nói vài câu cho phải phép. Mà tao thấy nó cũng được, chứ có gì đâu". Tôi uể oải nghe lời mẹ, cảm thấy rã rời. Cái mặt nạ trên trên mặt như được khoét bằng đá lạnh lẽo. Dì đứng ở cửa, níu tay tôi lại "Không thích thì đừng hành hạ vừa mình vừa người ta. từ chối cho xong chuyện". Tôi ngó Hội lom lom, nhủ thầm, sao Hội khốn khổ thế. Rồi không biết đến bao giờ tôi cũng sẽ khốn đốn như Hội đang nghệt mặt ngồi đằng kia, dù biết sẽ chẳng được gì. "thôi Hội về đi. Chuyện tình cảm chẳng ai thay đổi được. Tôi có bạn rồi Hội ạ". Tôi tiễn Hội ra cổng. Ðêm trăng, gió thổi tốc lá xuống vườn lạo xạo. Tôi đóng cửa, quay vào nhà, thấy lòng đã nhẹ nhõm hẳn.

*
* *

Dì Duyên đi đã hơn một tháng, không tin tức gì về nhà. Mẹ càng ngày càng lặng lẽ giữa nhang khói, giữa khu vườn tiều tuỵ lá. Ngày ngày, tôi đạp xe đến lớp, giết thì giờ bằng cách chui vào những quán cà phê quen thuộc với dúm bạn quen thuộc hoặc ngồi nghiêm nghị ở thư viện, tay ôm sách mà không nghĩ ngợi gì.
Một ngày, dì viết thư về thông báo nghỉ học. Dì đang thử đi buôn chuyến với một anh chàng người Hà Nội. Giàu có lắm, "sang" lắm. Thời buổi này có tiền nhiều là nhất. Mọi giá trị cuộc sống đều dễ dàng thay đổi. Dì bảo, ở đây hai ngày, năm ngày là vui. Còn tương lai thì
chưa biết sao. Những vẫn hy vọng và chờ đợi. Hạnh phúc là khi có một điều gì đấy để chờ đợi, phải không? Mẹ đọc xong, thẫn thờ "Sao bây giờ chúng khác xưa nhiều thế? Ðến hư hỏng mất thôi". Tôi cãi "Chỉ là việc kiếm sống đơn thuần. Dì hạnh phúc là đủ rồi, mẹ ạ". Tôi trèo lên gác xép. Qua ô cửa, một ngôi sao bé tí như bị đóng đinh trên trời, cô quạnh và buồn da diết. Tôi nghĩ, giờ này ở nơi xa, chắc dì đã không phải buồn và cô đơn như vậy.


*
* *

Dì về. Người đẫy ra, vẫn mắt thanh mày dài lấp liếm giữa mái tóc bụi đời. Dì sang trọng, giàu có hơn những ánh nhìn đã u uất hẳn. Ngay phút đầu nhìn dì, tôi nhận ra, dì không còn là ngày xưa nữa. Thời gian và cuộc sống đã mài nên một dì Duyên già dặn, đầy lo toan.

Dì mân mê tay tôi "Dạo này sống thế nào?". "Cháu vẫn học Ngoại thương. Sắp ra trường". "à, có tương lai đấy. Nhưng đừng thực tế quá". Tôi nhấp nhổm trên ghế. "Dì buồn cười. Ai cũng khuyên đừng mơ mộng quá. Chỉ có dì là hay ngược đời. Nó không tốt thật à?". "Không. Nhưng giàu có chẳng phải là thứ hạnh phúc người ta kiếm được". Dì xia bụng, ngả lưng xuống tràng kỷ "Ðã yêu rồi phải không?". "Cháu không biết. Nhưng bây giờ cháu cảm thấy hạnh phúc".
Buổi tối chúng tôi ngồi quây xung quanh chiếc bàn nhỏ kê ở góc bếp đầy mùi mỡ rán và mùi thức ăn sực nức. Lùa được vào miếng cơm, dì chống đũa mơ màng "Em sắp có con". Tôi và mẹ sững người. Trong thư, bao giơ dì cũng kể về một cuộc sống độc thân đầy đủ và vui sướng. Mẹ lấy khăn lau vội vệt mỡ vừa bắn lên mặt "Chúng mày đám cưới ra sao không báo cho chị. Bố nó đâu rồi?". "Có cưới hỏi gì đâu - Dì nhìn mẹ vừa thách thức vừa đau đớn - Nó biến mất rồi". Môi mẹ run bần bật, Mặt tái ngắt từng mảng như đổ chàm "Nó được bao nhiêu tháng?". "Gần ba tháng". Mẹ cau mày, giọng trở lại lạnh tanh "Thế còn kịp. Ngày mai chị đưa em đến Từ Dũ. ở đó người ta giải quyết nhẹ nhàng, gọn ghẽ lắm". Dì đứng dậy, cười nhạt "cám ơn chị. Việc em làm, em lo, em chịu. Chị không cho em ở đây thì thôi, chứ đừng ép". Mẹ thở dốc, oà ra nức nở. Bảo rằng dì đã làm ô uế gia đình. Chao ôi là nhục nhã. Tôi không biết nói gì, làm gì. CHỉ đứng vơ vẩn và thấy lòng nặng trĩu. Tự hỏi thầm, sao tuổi trẻ chẳng bao giờ hiểu được và tránh được những vết lầy mà tuổi già đã đi qua?

Bữa cơm bỏ dở, thức ăn vương vãi trên bàn. mẹ rời bàn, loạng choạng bỏ vào phòng. Dì lại xoa bụng, mặt vẫn tái xanh. Bất lực và chua chát. Tôi lại gần dì, ấp úng "thôi dì đừng buồn. Mẹ cháu hay khắt khe trong mọi việc, rồi sẽ qua hết thôi. Ðứa bé đâu có tội tình gì". Dì nhìn tôi trân trối, lặng ngắt "Chẳng lẽ dì đã có lỗi". "Cháu không biết. Nhưng theo cháu, tự do không có nghĩa là phá bỏ đi tất cả, dì ạ".

Tôi ôm dì trong tay, thấy mình người lớn hơn, già dặn hơn. Chưa bao giờ tôi thấy dì gần gụi với tôi như vậy. Và thân thương, tội nghiệp đối với tôi như vậy.

Tôi bước ra vườn. Trăng lên, sáng như rọi đèn xuống góc vườn có cây mận héo, lộ rõ vài đám chồi non xanh oặt oẹo. Tôi thở dài khoan khoái. Ðau đớn, dằn vặt nhau thêm nữa làm gì. Cuối cùng thì mùa xuân cũng đã đến thật rồi. và tất cả mọi vật đều đang dần thay đổi đấy thôi?.

1095





Hoài nép mình sau cánh cửa nhìn ra ngoài. Bến tàu hôm nay rộn rịp lạ thường. Các tàu Nam-vang đã về. Tàu Long-xuyên, Cần-thơ cất hàng đi. Mấy hôm trước mặt nước im lặng và bình thản bao nhiêu thì hôm nay rộn rịp bấy nhiêu.

Hoài vẫn có thói quen rảnh việc là nhìn ra bờ sông. Đối với Hoài bờ sông có một sức quyến rũ say sưa lạ lùng. Nhìn giòng nước chảy vô tư, Hoài cũng có thể nảy ra trăm nghìn suy tư. Những hôm có tàu đi về, Hoài lại trông ra bờ sông rất lâu, để ý nhìn và cố đọc những cảm xúc trên nét mặt của kẻ biệt ly, người tái hợp.

Có những người về không ai đón, và cũng có những kẻ đi chẳng ai đưa. Hoài là người đưa và đón họ trong yên lặng.

Mỗi một chuyến tàu đi, Hoài nhìn theo cho đến khi khuất bóng. Mỗi một chuyến tàu về, Hoài nhìn cho đến khi tất cả hành khách, và người thủy thủ cuối cùng lên bờ. Con tàu nằm yên như nghỉ mệt sau một thời gian sóng gió.

11 giờ đêm. Khu vực chiếm đóng trở nên yên tĩnh. Thỉnh thoảng chỉ một ít tiếng giày của toán quân viễn chinh đi tuần, Hoài mở cửa ra hiên nhìn xuống đường: Trăng sáng xanh xanh, dãy núi xa ở bên kia bến mờ mờ trong sương đêm, trông như một bức tranh thủy mạc. Mấy chiếc thuyền đánh cá ban đêm cũng đã vào bến. Đêm yên tĩnh và lạnh lẽo. Bóng những lá cây vẽ lên tường lấp lánh như một bức mành hoa. Đêm nào Hoài cũng nhìn bức tranh bất di bất dịch ấy không hề chán mắt.

Hoài bỗng chợt nhớ đến ban chiều nàng đến thăm chị Mỹ, một cô bạn gái nàng quen từ 5, 6 năm trước ở một tỉnh miền Trung Bắc. Sau một thời gian xa cách hai chị em bỗng gặp lại ở một nơi xa lạ, Hoài mừng rỡ hỏi thăm tin tức bạn bè thân sơ ngày xưa ai còn ai mất.

Chuyện trò một lúc bỗng ở ngoài đi vào một thanh niên, Mỹ giới thiệu là em trai chị. Hoài ngạc nhiên hỏi:

- Sao hồi trước em không biết anh này. Em chỉ còn nhớ anh Hùng thôi vì anh ấy có bộ râu quai hàm ghê quá.

Thạch, chàng thanh niên cười:

- Tôi cũng có râu quai hàm, nhưng cô không biết có lẽ hồi ấy tôi còn bé. Còn bây giờ cô không thấy vì tôi vừa mới cạo xong.

Hoài nhìn Thạch bỗng đâm ra lo sợ vớ vẩn. Thạch có cái vẻ gì làm cho nàng phải lo ngại. Hoài nghĩ thầm:

- Muốn cho yên tĩnh mà học, ta cần phải tránh anh chàng nầy mới được.

Hoài tự dặn mình và nàng đã giữ được gần đúng như thế. Hoài cố gặp chị Mỹ rất ít, và mỗi lần gặp, Thạch mới hỏi vớ vẩn mấy câu, Hoài đã kiếm cớ lẩn đi nơi khác.

Chị Mỹ và Thạch sắp xuống tàu đi Pháp học. Thế là xong Hoài sẽ khỏi phải lo nghĩ không đâu nữa. Thế nhưng chuyện giấy tờ của Mỹ gặp trở ngại, phải nhờ cậu của Hoài giúp và vì thế, sự giao thiệp càng ngày càng gần.

*
Hoài đang đứng ở hiên sau vẫy nước tưới cho một cây con, bỗng giật mình. Thạch bước lên cầu thang tươi cười bảo:

- Cô Hoài, hôm nay tôi đến chào cô và bác đây.

- Có chuyện gì thế anh?

Hoài cười, nhưng thấy như có chút gì ngao ngán và mến tiếc.

Thạch đến cạnh Hoài hỏi:

- Cây gì thế cô? Cây gì mà tôi thấy cô ngày đêm săn sóc mãi. Cái cây nầy làm cho có người phải ao ước.

- Cây Sầu riêng đấy anh ạ.

Thạch tinh quái:

- Cô mà cũng “ sầu riêng” à? Tôi cứ tưởng tim cô bị ướp nước đá từ hàng trăm năm kia đấy. Lúc nào cũng lạnh như băng.

Hoài mỉm cười:

- Anh tưởng thế đấy!

- Cô trồng làm gì thế?

- Nhân có người bạn biếu mấy quả sầu riêng, tôi lựa quả ngon nhứt lấy hột ươm chơi.

Thạch tinh quái:

- Sao họ biếu sớm thế? Tôi thì tôi đợi đến đúng ngày cưới kia.

- Anh cũng biết câu chuyện ấy à?

- Không, câu vừa rồi tôi bịa ra. Chuyện thật thế nào có ly kỳ lắm không?.

- Tôi kể anh nghe nhé. Ngày xưa, à, mà cũng không xưa lắm đâu. Có...

- Vâng, có thể là ngày nay, có thể là hiện tại, giờ nầy, phút nầy và chốn này.

Hoài nhăn mặt:

- Anh lại đùa. Thôi không kể nữa.

- Tôi xin nghiêm, xin lắng tai nghe câu chuyện tình lâm ly bi đát.

- Ngày xưa có hai người yêu nhau lắm.

- Yêu nhau lắm lắm chứ!

- Đấy, anh lại đùa rồi!

Thạch đứng thẳng người, vòng tay lại:

- Thưa bà chúa, tôi xin nghiêm.

- Thế thì được. Ngày xưa có hai người yêu nhau lắm, nhưng không lấy được nhau.

- Vì sao thế cô?

- Vì người con gái bị cha mẹ gả chồng khác. Đến ngày cưới anh chàng đem biếu người yêu mấy quả sầu riêng, để nhắc cho cô nhớ rằng tuy cô vui với tình duyên mới, chàng vẫn nhớ cô, và vẫn ôm mối “ sầu riêng” một mình. Cô dâu đến giờ phút ấy đau khổ quá. Muốn tỏ cho người yêu biết cô chỉ yêu một mình chàng nên cô tự tử. Anh chàng kia không ngờ mình làm cho người yêu chết nên cũng tự tử theo.

- Thế còn chú rể có tự tử không?

Hoài bật cười:

- Không, vì nếu chú rể cũng chết nốt thì rắc rối lắm. Họ sẽ lại tranh nhau ở thế giới bên kia nữa.

- Theo ý cô thì sao? Nếu cô là cô dâu cô có tự tử không?

Hoài ngẫm nghĩ:

- Không, nếu một khi tôi đã yêu và được yêu thì làm gì có cái đám cưới chết người ấy.
- Còn ý anh thế nào?

Thạch cười:

- Tôi ấy à, ý tôi thì anh chàng ấy dốt lắm. Ở địa vị xí hụt ấy tôi sẽ không biếu mấy quả sầu riêng đâu.

- Để chả ai chết cả phải không?

- Không tôi biếu luôn mấy xe vận tải sầu riêng. Tôi mua cả mấy vườn sầu riêng chở đến biếu nàng. Nhà nàng sẽ chất đầy sầu riêng và mùi sầu riêng bay ra sẽ làm cho hai họ phải chạy mất. Đến lúc chú rể cũng chạy nốt thì tôi sẽ thế vào cái chỗ trống ấy. Và nếu cần phải có người chết câu chuyện mới ly kỳ, tôi sẽ cho chú rể tức uất lên mà chết. Chứ người chết nhứt định không phải là cô dâu của tôi.

Hoài cười, Thạch cũng cười. Ngẫm nghĩ một lúc Thạch bảo:

- À quên, tôi sắp xuống tàu, cô chúc gì cho tôi nào?

Hoài lạnh nhạt:

- Chúc anh à, chúc anh bao giờ cây sầu riêng này có trái thì anh thành tài trở về.

Thạch tái mặt:

- Sao cô ác thế! Cô trồng cây trong lon sữa bò thì còn ra trái thế nào được. Nhưng thôi, tôi cũng cám ơn cô, và chào cô, lần này là lần cuối cùng.

Thạch cầm mũ quay lưng đi. Hoài biết mình lỡ lời hốt hoảng gọi:

- Thạch, anh Thạch!

Thạch quay lại đến bên cạnh Hoài, nhìn thẳng vào mắt nàng. Một chốc Thạch sẽ cúi xuống hôn trên đôi mắt rưng rưng lệ.

- Hoài xin lỗi Thạch!

Thạch nắm chặt tay Hoài:

- Em chờ anh 6 năm nhé?

*

Trời chiều vàng một mầu ly biệt, một ít mưa bụi làm mờ mặt nước trong veo. Thạch đã đi rồi ! Bức tường sừng sững trước mặt mờ lẫn trong mưa. Thấy mắt mình ươn ướt và hơi lạnh thấm vào đến ngực. Hoài vội khép chặt cửa sổ.

Tiếng còi tàu Nam Vang thét lên một hồi rùng rợn. Hoài giật mình bịt tai. Bao nhiêu dè dặt của nàng đều hóa ra vô ích cả. Hoài nhớ đến những hôm nàng đã cố làm ra vẻ lạnh lùng với Thạch, tưởng mình chỉ gắng kiên nhẫn một lúc, để tránh những ưu phiền tình cảm vướng bận lâu dài về sau, Hoài thở dài:

- Chạy trời không khỏi nắng. Anh chàng ấy thế mà nguy hiểm thực. Giờ phút cuối cùng cũng còn giăng bẫy được.

Hoài nhớ đến những hôm chủ nhật cùng chị Mỹ đi lễ nhà thờ lớn, Hoài không theo Chúa nhưng chỉ theo Mỹ cho vui. Quì dưới chân Đức Mẹ, chị Mỹ lẩm nhẩm cầu nguyện. Hoài cũng cầu nguyện. Nhưng không phải như những cô nàng mơ mộng “ Em khấn cùng trời Phật. Sao cho em lấy chàng.” Hoài cầu nguyện ngược lại.

Phòng trọ tạm thời cho sinh viên chờ tàu của Mỹ bé nhỏ, chỉ có 2 cái giường xếp vải cho hai chị em. Những lúc Hoài đến thăm buổi trưa vắng Thạch, Hoài thấy sung sướng được nằm trên giường Thạch, gối lên gối Thạch, được ôm lấy mền Thạch đắp, được nhìn ảnh Thạch trên tường mà Thạch không bao giờ biết được.

Và khi Hoài ra về, Thạch nằm lại chỗ của mình, thấy mùi nước hoa của Hoài còn thoang thoảng, vấn vương trên chiếc gối trắng tinh. Thạch lại nhớ đến Hoài. Vì cũng như Hoài, Thạch như đang cố gắng vượt qua một ma lực huyền bí đầy quyến rũ. Những lúc chỉ có hai người Thạch lại càng nghiêm trang hơn, và tránh nhìn thẳng vào mắt nhau. Cả hai cùng có cái cảm tưởng như đang đi trên một con đường dốc trơn, nếu lỡ trượt chân một cái là không còn gượng được nữa. Hoài trang trọng và lạnh lùng, Thạch cũng thản nhiên nghiêm nghị. Thế nhưng cả hai trong thâm tâm cùng cảm thấy một trời giả dối bao trùm..

Thạch sắp xuống tàu đi Pháp. Họ sẽ buồn vì phải xa nhau không biết đến bao giờ, nhưng cả hai cùng mong cho ngày đi chóng đến gần, hình như mong như thế sẽ thấy ngày giờ dài ra một chút. Còn được gần nhau thêm một lúc, mà trong lúc ấy, trái lại họ cũng mong cho chóng xa nhau ngay.

Những ý tưởng trái ngược ấy cứ thi nhau dằn vặt tâm hồn hai người bạn trẻ. Kẻ nọ mong người kia chóng đi cho khuất hẳn, để mình yên thân. Thế nhưng tấn kịch dù có kéo dài đến đâu cũng có lúc phải hạ màn. Hoài nhớ đến hôm tiễn Thạch đi, bàn tay bé nhỏ của nàng nắm chặt tay Thạch, nghe nhắc lại lời hứa hẹn : “6 năm, em nhé!”ù

Tàu từ từ rời bến, bao nhiêu là khăn tay vẫy, nhưng trong tất cả rộn rịp của một chuyến tàu biệt ly, Hoài chỉ nhìn thấy riêng một đôi mắt đăm đăm.

Chiếc Ville d’Amienne đã mang Thạch đi Pháp. Mấy tháng sau, chiếc Trung Quốc cũng mang Hoài đi Hương cảng. Thế là kẻ Đông người Tây. Cậu của Hoài từ lâu đã chuẩn bị cho Hoài học trường Tàu ở Chợ Lớn, chủ ý gởi sang Hongkong học tiếp để tương lai chỉ huy tiệm nhánh của ông ở đó. Đứa cháu và cũng là đứa con nuôi duy nhất mà ông tin cậy thương yêu.

Hương cảng đẹp biết bao nhiêu! Lúc hoàng hôn xuống tàu sang bến Cửu long, nhìn ngược trở lại Hương cảng, những ánh đèn trên các đỉnh núi xa trông lấp lánh rực rỡ như muôn ngàn vì sao từ trên trời rơi xuống. Nhìn thiên hạ dập dìu Hoài cảm thấy bơ vơ một cách lạ! Chưa đến ngày tựu trường Hoài theo mấy nguời bạn vào Quảng châu chơi. Gần một tháng trời ở Quảng châu chiều nào nàng cũng ra vườn hoa sau nhà đi bách bộ, hay ngồi trên tấm ghế đá đọc sách, ngắm cây cảnh.

Cái vườn hoa nầy lúc xưa chắc hẳn đẹp lắm. Những đình, tạ, thư viện, bể cá đều chạm trổ công phu. Những cây đại thọ như từng sống cả trăm năm, hồ sen rộng lớn chèo được thuyền, Ngày xưa phải là nhà của một người giàu có, nhưng nay vật đổi sao dời, tất cả các tác phẩm chạm trỗ đều nức rạn, thân cây chết cứng giữa lòng đất khô nẻ. Cả một nếp phong nhã thời xưa, bây giờ chỉ còn lại dấu vết một ít sườn và gạch đá đổ vụn tiêu điều.

Hoa nhãn rụng xuống đầy cả đầu Hoài, Minh một em bé Tàu độ 6, 7 tuổi chạy đến bên Hoài làm quen. Nó dạy cho Hoài “ Long nhãn” tiếng Tầu gọi là “ Lùng ngạn” Hoài xoa đầu nó bảo:

- Tôi không ăn được nhãn nầy đâu.

Minh nhặt những cánh hoa vương trên vai nàng ngạc nhiên hỏi:

- Cô không có răng sao?

Câu hỏi ngây thơ làm Hoài bật cười. Nó không hiểu ý Hoài nói không ăn được vì sắp về lại Hương cảng.

Hoài chợt nhớ đến cây sầu riêng của nàng. Không biết có ai săn sóc không? Hay vẫn còn ở trong lon, hay đã khô, đã chết?

Còn Thạch, giờ nầy Thạch ở đâu? Thạch đang làm gì? Thạch vào trường nào? Thạch còn nhớ đến Hoài không, hay “ đi là hết”. Hoài không hề nhận được tin tức gì của chị Mỹ. Hoài chỉ biết Mỹ ởï trong một trường Xơ viø từ lâu chị đã có ý muốn thành một nữ tu sĩ.

Nhớ đến Thạch, Hoài lại thấy một cảm giác âm ấm ở ngực, nồng nồng ở cổ và cay cay ở mắt.

Bé Minh nhìn nàng ngạc nhiên:

- Ô kìa, cô không ăn được nhãn nên khóc đấy ư?

Trải qua một thời gian tâm trí xáo trộn, Hoài như đã dịu được những ấm ức không tên, Hoài đã tìm thấy được liều thuốc an thần. Những lời hứa hẹn dù rất chân thành nhưng khi ý chuyển thành lời, lời s ẽ hòa lẫn với không gian rồi tan biến vào hư vô. Vậy thì đừng dùng hứa hẹn làm vật liệu để xây tù ngục cho cuộc đời.
Nhớ ngày cậu Hoài tiễn Hoài xuống tàu căn dặn:
Hoài thương cậu thì hãy nhớ lời cậu, coi như cẩm nang để xử lý việc đời. Đó là

“Đừng để cho bất cứ cái gì làm phiền mình.
Đừng để cho bất cứ ai làm mình phiền.”

Bây giờ Hoài coi thường nhưng một ngày nào đó con sẽ dùng nó làm cái phao …

Nắm được “ cái phao” Hoài cười đùa hồn nhiên vui vẻ như xưa. Nhưng thực ra, mùi “sầu riêng” của mối tình đầu như mớ bùn đã chìm xuống tận đáy. Mặt nước trong veo có vẻ tinh sạch quá chừng. Nhưng hãy để yên, dù có “phao” hay không, nếu động đến là nước lại vẩn đục, lòng lại xao xuyến

1062


Powered by Blogger.