Hai người bạn cùng làm thuê, lâu ngày gặp nhau, trò chuyện:
- Mình đi làm công cho người ta đã nhiều mà chưa thấy ông chủ nào chửi bới công nhân thậm tệ như ông này. Thằng cha nào cũng bị ổng chửi. Trong bữa ăn ông ta cũng chửi.
- Còn bà chủ?
- Ồ! Bà chủ thì hết chê, trẻ hơn ông chủ đến cả vài chục tuổi, tính tình cởi mở. Thằng nào cũng thích.
- Nếu tớ là ông chủ ấy, tớ cũng chửi.
Người đàn ông keo kiệt nhất trên đời đã đi sắm quà giáng sinh. Nhưng mọi thứ mà anh trông thấy đều quá đắt ngoại trừ một bình hoa giá năm mươi đô la được giảm xuống còn hai đô la vì cái quai của nó bị gãy mất rồi. Anh ta mua nó và bảo người bán gửi về cho bạn mình qua đường bưu điện để bạn anh ta ngỡ rằng anh ta đã mua nó với giá năm mươi đô la và nó đã bị gãy quai lúc chuyên chở.
Một tuần lễ sau lễ Giáng sinh, anh ta đã nhận được thư cảm ơn của bạn mình, thư viết:
- Cảm ơn bạn về chiếc bình hoa xinh đẹp. Và cảm ơn bạn đã cẩn thận gói riêng từng mảnh gởi cho mình.1999
- Tôi kết hôn với một nữ luật sư, nàng có tài thuyết phục thật kinh hồn. Khi tôi quyết định ly dị để làm lại cuộc đời với một cô gái mà tôi yêu thắm thiết thì nàng đã thuyết phục được tôi ở lại với nàng vì hạnh phúc của các con.
- Đó là điều thông thường, phụ nữ vẫn dùng cách này để cứu vãn hôn nhân của mình.
- Vâng, mãi về sau tôi mới nhớ ra rằng chúng tôi chưa bao giờ có con.1037
- Hôm nay ở trường học gì thế con? - Ông bố hỏi con trai.
- Dạ thầy giáo bảo con tìm chủ ngữ và vị ngữ trong câu. Thật là khó!
- Hồi bố đi học, người ta cũng bắt bố tìm những thứ ấy! - Ông bố nói giọng an ủi - Thế mà đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra!
- Mày học toán mãi mà chỉ đếm được từ 1 đến 10. Dốt thế thì sau này làm gì được hả con!
- Bố yên tâm. Con sẽ là trọng tài quyền anh!1141
Bấy giờ Út mới mười lăm tuổi. Mỗi khi rảnh việc, Út thường chạy đến xem tôi vẽ. Út tỏ ra thích những bức tranh tôi thể hiện cảnh đồng quê bằng cách chấm phá những đường nét giản dị trên các mảng màu thật nhạt. Như cảnh bờ ao với một vài con vịt đứng rỉa cánh, cảnh dòng kinh với một con bói cá cắp mồi bay vụt lên, còn để lại dưới nước một vòng tròn lan tỏa.
Vẽ chán những cảnh quanh quẩn ở nhà, tôi xoay qua vẽ cảnh mặt trời mọc trên đồng nước nổi. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm. Khi tôi lịch kịch chuẩn bị các thứ bảng màu, giá vẽ... thì Út cũng thức. Tôi ở trên nhà chuẩn bị đồ lề của mình, Út ở dưới bếp nấu nước châm trà cho ngoại. Ánh lửa rưng rức hắt vào mặt Út, bật lên những viền sáng, tự nhiên gợi cho tôi đề tài về thiếu nữ giữa đồng đưng gọi mặt trời thức giấc.
Tôi nghĩ đến đồng đưng, bởi trước giải tỏa tôi chiến đấu ở vùng Tháp Mười. Những cánh đồng đưng ngút ngát, vào mùa nước nổi bị nhận chìm, trên mặt nước chỉ còn lất phất những đọt lá nào thật cao. Khi mặt trời lên, mặt nước của cánh đồng đưng có màu sắc riêng lạ lắm. Tùy theo sự dày đặc khác nhau của lớp đưng bị nhấn chìm mà sắc màu chuyển động, chuyển động liên tục theo sự phản quang của tia mặt trời ban mai chiếu xuyên qua mặt nước, rọi xuống những cọng đưng tua tủa bên dưới mà dội lại theo những góc gãy khác nhau. Nếu đặt trên nền ấy một chiếc xuồng, một thiếu nữ... biết đâu tôi sẽ được một tác phẩm về sức trỗi dậy hoang sơ đầy lãng mạn.
Vậy là tôi hăm hở ra đi, hết ngày này qua ngày khác, cố gắng quan sát thật kỹ để nắm bắt cho được thần thái của sắc màu. Tôi kiên trì thể hiện bằng màu trên giấy không biết bao nhiêu lần. Chừng thấy tàm tạm, tôi mới bắt tay vào thể hiện hình tượng cô gái và mặt trời. Lấy ai làm mẫu bây giờ? Tôi nghĩ ngay đến Út. Tôi mới dạm hỏi, Út đã cười bẽn lẽn:
- Em xấu thấy mồ, làm mẫu hư tranh anh thì sao?
Ngoại Út ngồi uống nước, hút thuốc nghe vậy gõ gõ ngón tay xuống bàn, nói:
- Con nhỏ này thiệt! Mày không giúp thì còn ai giúp?
Út lại cười. Đôi mắt cũng cười. Mái tóc cũng cười. Cái lúm đồng tiền tròn vo cũng cười.
Đường từ nhà Út ra đồng đưng phải vượt cả một cánh đồng chừng năm bảy cây số; để khỏi mất thời gian của Út tôi bắt đầu vẽ Út với mặt trời vào mỗi sáng ngay trước cửa nhà. Tôi ngồi sau lái, Út ngồi ở mũi xuồng. Tôi phải sắp xếp cho chiếc xuồng nằm hơi xéo tia chiếu của mặt trời. Còn Út thì ngồi xếp hai chân về phía sau, người hơi đổ về phía trước, mặt xoay về hướng mặt trời. Một tay cầm mái dầm thả một cách hờ hững trên đùi. Một tay đưa lên trán như kiểu sắp hất cho mái tóc dài xõa về phía sau. Nội chừng ấy thôi, tôi đã mất đến bốn năm buổi sáng với bảy, tám phác thảo mà vẫn chưa thấy hài lòng.
Mỗi lần thấy tôi vẽ xong mà lắc đầu, Út lo lắm. Út nhìn tôi, hỏi một cách vô tư:
- Tại em ngồi mẫu kém phải không anh Ba? Em mắc tật cứ hay ngọ ngoạy chân tay làm anh vẽ không được, phải không anh Ba? Để mai em ráng ngồi thiệt êm cho anh vẽ nghen!
Tôi giải thích cho Út hiểu rằng cái chính không phải là đường nét mà là sắc màu. Tôi thất bại vì chưa diễn tả được cái đẹp hồn nhiên trong sáng của ánh nhìn trong mắt Út khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu vào. Tôi nói với Út:
- Út biết không, khi tia mặt trời đầu tiên chiếu vào mắt em, ánh nhìn của em ngời lên ánh sáng rất diệu kỳ, đẹp không thể tưởng được; sang năm, sang năm nữa anh quyết vẽ bằng được mới thôi.
Sau nhiều lần phác thảo chân dung tại chỗ, tôi quyết định cùng Út ra đồng để xây dựng bố cục giữa thiếu nữ, mặt trời và đồng đưng ngay tại không gian tôi đã chọn. Ba bốn ngày liền, tôi với Út chống xuồng ra đồng đưng để dựng phác thảo. Điều làm tôi quay quắt nhất là chọn tông màu. Thiên nhiên ngời ngợi màu sắc, tôi không làm việc sao chép lại màu sắc ấy. Cái tôi cần thể hiện là phải tìm bằng được linh hồn của sắc màu, sao cho nói lên được sự yên ổn, hoang dã bật thức dậy trong đôi mắt thiếu nữ gọi mặt trời.
Một hôm, khi đang loay hoay pha màu, tôi bỗng nghe tiếng Út reo lên sung sướng:
- Sếu về! Sếu về rồi anh Ba ơi!
Tôi ngoái lại nhìn. Đẹp quá! Đẹp tuyệt vời! Những cánh bay dìu dịu, nhẹ nhàng như đan vào nhau mà chớp ngọn nắng hừng đông. Cả một bức tranh hoành tráng chuyển động sắc màu nâu nhạt trên nền trời xanh xám, ửng lên phơn phớt sắc hồng. Phải rồi. Tìm được tông màu rồi. Tôi cảm động đến lịm người.
- Sếu về rừng tràm, về đồng năn đó anh Ba. Vô rừng tràm coi chim đi anh Ba!
Tôi gật đầu với Út. Hai chúng tôi lúc bơi bằng dầm, lúc chống bằng sào, phải gần ba tiếng đồng hồ mới vô đến tràm chim. Những con sếu cổ trụi đứng dầm chân dưới nước như những chấm màu. Thấy người, chúng vỗ cánh bay dựng lên, tạo ra những âm thanh xao xác. Bay được một quãng, chúng lại đáp xuống, điểm màu cho đồng năn buổi sáng. Chúng tôi say sưa ngắm đàn sếu cổ trụi hết cả buổi. Con nào cũng to lớn và
đẹp một cách duyên dáng. Con thì cần mẫn dùng cái mỏ dài đ
ào củ năn. Con thì ngẩng cao đầu nhìn mặt trời. Nhiều con vỗ cánh nhảy múa những vũ điệu gọi mời hết sức lạ mắt. Tới trưa, bất chợt một cơn mưa ập xuống. Tôi với Út phải tấp vô rừng tràm, căng tấm vải nhựa ra đụt mưa.Trời cứ mưa mãi, mưa muốn hết cả buổi chiều. Lạnh và
đói. Út nói: - Dứt mưa, em lên bờ bao đập rắn mối đãi anh nghe anh Ba!
Út đập được một xâu mười mấy con. Tôi gom lá tràm khô đốt lên nướng trui. Thịt rắn mối trắng, thơm và ngọt, ăn không biết chán.
Khi chúng tôi ngồi vào xuồng thì đã xế chiều. Bầu trời vần vũ những đám mây mọng nước. Út giục: - Bơi lẹ anh Ba! Tối là hết thấy đường đó.
Ai đã sống ở đồng nước mới biết khi tối trời đồng nước mênh mông ngút mắt, không còn biết hướng nào ra hướng nào. Quay phía nào cũng chỉ nước là nước, nước quây chóng mặt. Chúng tôi đã lâm vào cảnh đó giữa lắc rắc mây mưa, giữa mịt mùng bóng đêm vây bủa.
- Út ơi! Lạc đường rồi phải không?
- Chớ còn gì nữa. Đâu, ta bơi về hướng có ánh đèn kia kìa. Có gì mình hỏi đường người ta.
Ngọn đèn coi chập chờn, tưởng gần mà
đến được đến đó cũng mất gần cả giờ. Đó là ngọn đ
èn dầu hôi của một thằng nhỏ thắp lên canh chừng vịt. Thấy chúng tôi, nó ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, anh Hai bị lạc đường sao cà?
Tôi kể cho nó nghe mọi chuyện. Nghe xong nó nói:
- Hai anh em từ sớm đến giờ chưa bỏ bụng miếng nào mà chịu thấu sao? Để tui nấu cháo vịt cho ăn.
Tôi chưa kịp ngăn lại, nó đã vọt lẹ ra gò đất quây vịt, vặn tréo cổ một con. Bầy vịt giật mình kêu quàng quạc. Ăn uống xong xuôi, thằng nhỏ hấp háy con mắt, nói với tôi, giọng tỉnh queo:
- Tui ngủ xuồng cho, tui có nóp. Anh Hai với đứa em ngủ giường đi. Hồi chiều mắc mưa, ngủ ngoải bịnh à nghen! Tôi từ chối cách mấy nó cũng không chịu. Cuối cùng, tôi đành phải làm theo lời nó, bảo Út lên giường ngủ. Còn tôi, tôi ngồi hút khan hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, chong mắt chờ trời sáng.
Quá nửa đêm, Út giật mình thức dậy, nói:
- Anh Ba nằm ké đây mà ngủ. Ngồi đó muỗi ăn thịt à.
Quả là muỗi nhiều thật. Muỗi cỏ trong đồng nhỏ lăn tăn, li ti, bay xám quanh mình, kêu ve ve như sáo thổi; chúng đốt đau nhoi nhói và ngứa muốn phát điên lên được. Mệt quá, chịu hết xiết, tôi buộc phải phủi chân chun vô mùng ngủ chung với Út. Gần sáng, tôi thức giấc thấy mình đang ôm Út trong lòng; mắc cỡ quá, tôi lật đật ngồi dậy, bước ra khỏi túp lều. Mình thật kỳ, may mà Út ngủ say không biết, chứ không... dám độn thổ cho rồi. Sau bữa đó mấy ngày, tôi hoàn thành tác phẩm. Ngoại Út đứng chống nạnh, dòm dòm một hồi rồi nói:
- Chú Ba vẽ y chang con nhỏ. Mà coi bộ còn giống hơn con nhỏ. Dòm vô thấy nó man mác như xa như gần. Giỏi thiệt!
Hết hạn thực tế, tôi chép lại một phiên bản tặng Út. Út mừng húm, đòi ngoại mua khung kiếng lộng bức tranh treo lên vách nhà. Trên vách nhà cặp bằng lá dừa nước xé, còn nguyên sống lá chạy đổ song sóng từ trên xuống, bức tranh nổi lên rất sống động, mặc dù nó chỉ là phiên bản. Cô gái trong bức tranh như đang chớp mắt gọi mặt trời. Mái tóc bay xõa như suối mây, vờn vào không gian thấp thoáng bóng chim, bóng cá, nhòa nhạt bóng nước, bóng trời.
Bảy năm sau, hội mỹ thuật tổ chức cho tôi một cuộc triển lãm chung với hai họa sĩ khác. Hằng ngày chúng tôi thường đến phòng tranh, ngồi uống nước quan sát người xem, coi họ nhận định tranh ra sao. Một hôm có mấy nhà doanh nghiệp nước ngoài đến, họ dừng lại trước bức Cô gái gọi mặt trời của tôi. Một người nói: - Rất sống động. Tông màu biến hóa kỳ ảo như huyền thoại. Thiếu nữ trong tranh phải là một người sống rất chân tình. Giá mái tóc được bật sáng thêm chút nữa...
Ông ta đặt cọc để mua bức tranh cao hơn giá treo tranh của tôi rất nhiều. Số tiền đó với gia đình chúng tôi là cả một tài sản. Biết tin này, không hiểu sao vợ tôi lại hỏi:
- Này anh, cô Út của anh chắc có chồng rồi nhỉ? Bảy năm rồi còn gì!
Nghe vợ hỏi, tôi sực nhớ đến Út. Nhớ đến buổi sáng chia tay với Út. Út bơi xuồng đưa tôi ra chợ xã. Dọc đường Út kể đủ thứ chuyện về đồng nước. Gần đến chợ, Út chợt hỏi tôi:
- Anh Ba về thành chắc nhiều con gái đẹp, dám quên ngoại, quên Út lắm nghe.
Tôi nói đùa với Út:
- Con gái thành thị coi màu mè sặc sỡ chứ hơn sao được Út mà quên. Đợi ra trường làm ăn có tiền, thể nào anh cũng về nông thôn cưới vợ.
Út gác mái dầm, nhìn tôi, nói:
- Dóc tổ! Anh Ba mà chịu cưới vợ quê!
- Thiệt chớ! Anh sẽ tìm cưới được một cô vợ giống hệt Út vầy nè!
Út đỏ mặt mắc cỡ, hứ một tiếng rồi từ đó không nói chuyện nữa, chỉ lặng lẽ chèo. Mãi đến khi đã cặp xuồng vào mé chợ, Út mới lại lên tiếng:
- Anh Ba cho Út tấm hình được không?
Nghe tôi nói không có tấm hình nào, Út buồn xịu xuống, mắt rưng rưng muốn khóc. Để an ủi Út, tôi rủ Út vô tiệm chụp hình chụp chung hai anh em một tấm làm kỷ niệm.
Bây giờ nghe vợ tôi nói vậy, tự nhiên tôi thấy mình có lỗi. Tôi ăn ở nhà Út cả tháng trời, vậy mà khi trở về thành đến một lá thư cảm ơn, thăm hỏi cũng không viết được. Đã vậy khi chia tay tôi còn hứa hươu hứa vượn. Lòng đầy ân hận, ngay chiều đó tôi tìm mua mấy món quà, ra bến xe mua vé về thăm Út.
Tới nơi, cảm giác đầu tiên làm tôi lạnh cả người. Căn nhà vắng đến kỳ lạ. Bức tranh vẽ Út từ vách lá đã chuyển lên bàn thờ. Trời ơi! Út mất rồi sao? Tôi đau đớn lặng người, nước mắt trào ra. Thắp một nén nhang, tôi đứng chết trân trước bức tranh tôi vẽ cô gái gọi mặt trời.
Sau đó, bà hàng xóm tính tình xởi lởi chạy qua, kể với tôi: - Chú biết không, con nhỏ lạ lắm. Ba bốn đám đến hỏi mà nó không ưng, không chịu đám nào. Với ai nó cũng nói nó có chỗ rồi. Chừng nó bịnh, thấy thương lắm chú Ba ơi! Hễ nằm thiêm thiếp thì thôi, còn thức dậy là ứa nước mắt, hỏi: "Anh Ba có về thăm chưa ngoại?." Lúc đầu ai cũng tưởng nó hỏi thăm thằng Ba anh ruột nó, chừng thằng Ba về, mới biết không phải. Lúc nó chết, thay bộ đồ cho nó, lục trong túi áo cũ thấy có tấm hình chú Ba chụp chung với nó. Chèng ơi! Con nhỏ trông chú Ba mỏi con mắt. Chú thiệt là tệ! Đi gì đâu biệt tăm hơi, không biên cho nó được lá thư!
Trở về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho vợ tôi nghe, vợ tôi buồn bã nói:
- Anh ạ! Đừng bán bức tranh nữa. Cả hai đứa mình đều có lỗi với Út. Bán bức tranh đi, mình mắc tội với Út không biết bao nhiêu lần mà kể.
Đêm nay, căn phòng khách này được sắp xếp lại. Bộ salon, cái tủ chè, cùng những bức tranh sơn mài phải mang cất vào các buồng trong. Nhường chỗ cho chiếc áo quan kê ở giữa phòng. Ánh sáng của hai ngọn đèn neon trên trần nhà, được thay bằng ánh sánh của nhiều cây nến. Trong không khí trộn trạo những mùi nhang khói, trầm hương, hoa tươi, nước thánh, vải xô, gỗ mới, vẹc ni, là những bóng người mặc đồ tang trắng toát. Giữa những cái bóng đứng, ngồi, quỳ, phủ phục đó, có anh. Trông anh vẫn rắn rỏi, như thể pho tượng đồng được gói trong lần vải tang sô chưa nhầu nếp.
Anh đang khóc. Ánh nến soi vào hai giọt nước mắt, trông lấp lánh tựa hai giọt sương ứa ra từ một phiến đá đen thẩm. Không nghe thấy tiếng nức nở, chỉ thấy đôi vai anh run lên nhè nhẹ. Tôi nghĩ, sống trên đời hơn ba mươi năm nay, chắc đây là lần thứ hai anh khóc. Lần đầu là khi anh mới lọt lòng sanh ra, lần thứ hai này là vì mẹ anh vừa qua đời.
Anh tuổi cọp. Nhỏ thó. Lì lợm. Như quả lựu đạn bọc thuốc nổ trong lớp thép đen đủi, lạnh băng. Một đêm mưa tháng tám, tôi mở cửa cho anh vào nhà sau nhiều tháng đi biệt. Anh cởi chiếc áo mưa, lộ ra một vết chém đầy máu. Anh không chịu đi bệnh viện, chỉ buông lời ngắn gọn: "Khâu lại cho tao!". Bàn tay đứa sinh viên năm thứ ba trường Y của tôi, vẫn còn run run trên những đường kim vụng về. Bởi đó là máu, thịt, vết thương, cảm giác của ruột rà thân thuộc. Mặt anh đẫm nước mưa lẫn mồ hôi, và lấm tấm vệt đỏ máu. Da thịt anh đanh lại, nhưng anh không phát ra một tiếng rên đau.
Anh là hình ảnh hoàn toàn trái ngược với tôi. Có lần Bác nhìn tôi, giọng trầm xuống: "Phải chi thằng Hải nó được một phần của con". Còn tôi lại ước có phần nào đó của anh. Hồi chúng tôi còn nhỏ, anh hơn tôi chỉ ba tuổi, người nhỏ con đen đủi, nhưng lại làm con ngáo ộp tôi mang ra dọa đám trẻ đồng trang lứa. Chẳng có đứa nào dám bắt nạt tôi. Cả những đứa to con lớn xác hơn, cũng ngán anh vì anh vừa lì lợm chịu đòn, vừa ngang tàng liều mạng. Anh đẽo cù, dán diều, bắt dế cho tôi. Anh thương tôi như một người em ruột. Rồi anh bỏ học, đi hoang. Thỉnh thoảng trở về, nằm nhà vài ngày, rồi lại đi. Mỗi lần anh trở về, tôi lại thấy anh rắn rỏi, lầm lì hơn. Khi anh ở trần, tôi thấy người anh phô ra đầy những vết thẹo ngang dọc, ghi dấu những chiến tích giang hồ. Vì anh, bác tôi khóc mãi. Nước mắt cứ ướt, rồi lại khô. Buồn lo trong lòng người mẹ kết tinh lại, như ngọc trong trong đá. Bác lại bảo tôi "Ông Trời công bằng lắm con ạ. Mang con đến cho ta, thay đứa con ruột". Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi cùng chết trong một tai nạn. Người thân chỉ có mỗi bà bác goá chồng, cưu mang tôi.
Nhưng Trời hào phóng hơn nữa, khi mang đến cho Bác thêm một đứa trẻ khác. Cũng vào một đêm mưa gió, anh trở về, bồng theo một đứa trẻ, nhỏ tẹo như con búp bê. Thế là, Bác đã hơn sáu mươi, lại phải bận rộn sữa tã cho đứa bé từ trên trời rơi xuống. Tôi hỏi anh muốn đặt tên nó là gì, anh bảo cứ gọi nó là Cúc. Tôi định hỏi, có phải mẹ nó là Cúc, như cái tên xâm trên cánh tay anh không, nhưng thấy mắt anh lạnh qúa, tôi không dám. Tôi ra phường, làm giấy khai sanh cho con bé lấy họ tôi. Và khi đi Mỹ, tôi tìm cách mang nó theo. Một hôm con bé hỏi tôi, cái tên của nó nghĩa là gì, tôi bảo đó là tên một loài hoa, người Mỹ gọi là Daisy. Nó bảo tôi đổi tôi đổi tên cho nó, vì người ta cứ gọi tên nó nghe như chữ cook - nghĩa là người đầu bếp. Thế là nó có tên mới, Daisy.
Daisy đang ngồi kia, cạnh người cha ruột của nó. Nhìn nó trong chiếc áo vải xô màu trắng, thật tội. Nhưng con bé không khóc, mọi thứ chung quanh đây có vẻ như xa lạ với nó. Chắc nó quên rồi những ngày xưa còn bé, quấn quýt bên bà nội. Ánh mắt lạ lẫm của nó đang dán vào con thằn lằn bám trên bức tường vôi trắng.
Bỗng tôi nghe anh nấc lên, khuỵu xuống bên chiếc áo quan "Mẹ ơi! ... tha lỗi cho con! Mẹ ơi ..." Daisy ngơ ngác, rời mắt khỏi con thằn lằn, nhìn sang cha nó. Có lẽ những lời thống thiết của anh, đã làm rung lên một sợi dây tình cảm vô hình thâm sâu, nối liền giữa cha và con. Khuôn mặt con bé chợt biểu lộ điều gì đó, tựa như một nỗi buồn - rất trẻ thơ.
CV1647
Có một ông lão đạp xe từ nông thôn lên Hà Nội chơi. Đến Cầu Giấy, ông dừng lại hỏi thăm một cô gái bên đường:
- Cô làm ơn cho tôi hỏi từ đây đến Bờ Hồ còn bao xa? Cô gái õng ẹo:
- Nhưng mà còn tuỳ ông hỏi là đường đi bộ hay đường chim bay? Ông già thành thật:
- Không thưa cô, tôi hỏi là hỏi đường... chim đi xe đạp!
2389
Một vận động viên nhảy dù thể thao quyết chí đạt kỷ lục thế giới. sau khi lao người vào không gian anh ta bình tĩnh theo dõi máy chỉ cao độ cầm trên tay:
- 5.000 mét... 4,000 mét... 2.500 mét... 1.000 mét... 500 mét... 200 mét... 100 mét... 50 mét... 20 mét... Ồ ! Sắp tới đất rồi còn mở dù làm gì!1945
Đó là một tiệm bán sách báo. Bên trong kê những kệ để cơ man đủ loại sách. Ngay bên hông cửa ra vào, kê một cái tủ kiếng bày biện những món đồ trang trí bằng crystal, bút, tượng Phật và những dụng cụ treo trong xe. Một ngày nắng thật đẹp, nhưng có vẻ...buồn. Hình như ngay cả những giải nắng ngoài bãi đậu xe cũng đang lang thang chờ đợi bóng dáng ai...
Cô đến thăm anh vào một buổi trưa ngập nắng. Lòng hớn hở, vì cô có rất nhiều truyện kể anh nghe. Đôi khi, cô trộm nghĩ, có lẽ ngoài vấn đề anh nghe truyện cô bằng tai, anh còn nghe cả bằng mắt, và thỉnh thoảng, bằng sự xúc chạm bàn tay anh nắm lấy tay cô nữa...
Nhưng khi tới nơi, "chạm" phải ánh mắt anh nhìn tha thiết quá, làm cô bối rối, cảm thấy...quê một cục. Khi không cô lại im như thóc, chẳng nhớ bất cứ câu chuyện nào để kể. Cô ngồi làm bộ ngó lơ ngơ ra ngoài khung cửa, ngó trời, ngó đất, hai tay đan lấy nhau đặt trên đùi.
"Sao. Em Khoẻ không?"
"Uh huh..."
Anh bỏ chiếc nghế ngồi đối diện. Đến ngồi trên chồng sách cạnh bên cô, nhưng vẫn tế nhị dành một khoảng không gian vừa đủ cho cô khỏi bị mất tự nhiên:
"Sao hôm nay nói ít vậy? Có chuyện gì kể anh nghe..."
" Hì...."
Cô ngượng nghịu nhếch mép cười. Sao kỳ. Khi không cô lại mất tự nhiên thế này?
Biết cô đã đánh rớt mất sự hồn nhiên ngay sau khi bước vào cửa tiệm. Với cử chỉ rất tự nhiên, anh nắm lấy tay cô kéo về phía tủ kính:
"Có muốn có một cái chuông nhỏ treo trong xe không? Anh cho..."
Mặt cô tươi lên. Líu ríu theo chân anh đến chiếc tủ kiếng bày biện cơ man những đồ trang trí nho nhỏ. Từ tượng Phật bà, chuông, tháp, và cả những sợi tràng hạt đeo tay nữa. Anh chọn ra một cái chuông nhỏ xíu, ngắm nghía một lúc:
"Thích cái này không?"
"Thích... Nhưng...."
"Nhưng....sao?"
"Cái này để bán mà?"
"Nhằm gì. Của anh mà. Lấy một cái đâu có sao!"
"........."
Anh chọn ra một chiếc chuông nhỏ, có cột thêm một giải đỏ phía dưới:
"Cái này nhé? Ừ. Cái này đẹp hơn nè..."
Anh đưa liên tiếp hai, ba cái chuông đủ cỡ để cô chọn lựa. Nhưng cô vẫn còn ngần ngừ. Anh lại lôi tiếp một chuỗi đeo tay, ngắm nghía:
"Muốn cái này không?"
Cô xua tay lia lịa:
"Thôi...thôi, đừng lôi ra nữa. Em chẳng muốn gì hết!"
Chẳng trả lời cô. Anh vẫn chăm chú nhìn chuỗi tràng đeo tay mà anh vừa lôi ra từ trong tủ. Nó được kết bằng những viên đá vuông nhỏ, trên mặt đá có vẽ ngoằn nghèo vài nét trông rất lạ mắt.
"Anh nghĩ đây là chữ Phạn đó"
Cô cũng tò mò ghé mắt nhìn, cãi:
"Không phải chữ Phạn đâu, hình vẽ mà!"
"Hưmmmm... Chắc là chữ Phạn!"
Cô bướng bỉnh, trêu anh:
"Ưm....Không phải mà!"
Anh nhìn cô một thoáng, chẳng thèm cãi với cô chi cho mệt:
"Nè. Lấy không?"
"Không lấy đâu. Nhưng, em nói không phải tiếng Phạn nha!"
Anh chẳng nói gì. Nhìn sợi chuỗi thêm một lúc, cố nhận diện xem có một nét chữ nào quen không, rồi bỏ lại trong tủ. Cô tính kiếm cách...gây sự mà anh chẳng thèm cãi, cô đành xoè răng...cười:
"Okay. Chữ Phạn!"
Cả hai cùng cười. Anh tự ý chọn ra một cái chuông nhỏ rồi kéo cô trở về chỗ ngồi:
"Nè. Cất đi. Nhớ treo trong xe nghe."
Cô đỡ lấy món quà. Thực tâm, cô chẳng muốn lấy làm gì. "Vô công, vô dụng hạnh mà". Cô luôn nghĩ như thế khi nhận quà từ người khác. Nhưng đối với anh, có lẽ không nên câu nệ, nhận để anh vui, vì đôi khi, hành động nhận quà của mình cũng chính là để đem niềm vui đến người cho.
Anh ngồi trên thùng giấy bên cạnh, nhường cho cô cái ghế đẹp nhất trong tiệm. Cô ngó lơ. Nhìn tới, nhìn lui chẳng biết nói chuyện gì. Hai bàn tay đan lại với nhau, thấy ngứa, cô gãi gãi, để lại một vết đỏ ỡ kẽ ngón. Cô méc:
"Đỏ nè... "
Anh cười:
"Hồi nhỏ, đau chỗ nào, anh đều lấy...nước bọt làm thuốc, ngậm một lúc là hết... Đưa đây anh chữa cho..."
Rất nhẹ, anh đặt môi trên vết đỏ. Cô có cảm giác đầu lưỡi anh ươn ướt...
Thấy kỳ kỳ... Rụt tay về. Cô lại ngó lơ.....
Bỗng nhìn thấy đôi chân anh đi giầy sandal lòi mấy ngón chân coi ngộ ngộ, cô tinh nghịch dẫm lên chân anh rồi cười khúch khích. Phản ứng tự nhiên là anh rụt chân về. Nhưng cô cố bặm môi giữ lại. Cô ấn mạnh đôi giày bata của mình xuống chân anh. Anh hiểu ngay cô đang bắt đầu phát minh ra trò chơi mới. Anh hăng hái nhập cuộc chơi. Anh cố bặm môi kéo chân về. Hiển nhiên, anh kéo về được, và (chơi ngon) gác cả cẳng chân mình lên chân cô. Bốn bàn chân bắt đầu tranh giành ảnh hưởng, cô hăng hái muốn giành phần thắng về mình. Anh nghe tiếng cô cười lên khúch khích...
*
Buổi tối về. Anh lên giường với hình ảnh dễ thương của cô. Anh nhớ tới nụ cười ròn, ánh mắt ngó lơ... Mà kỳ ha! Sao bây giờ anh lại...nhớ thêm đôi cẳng chân với chiếc giầy bata đầy bụi đất!!
Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn rà.Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi. Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng.
Từ trên điển canh tôi chạy lao về làng. Hồi chiều nghe tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôì. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Ðằng sau, cơn đại hồng thủy đuổi bén gót. Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái thì vừa đợt dâng nước thứ hai. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm. Ðến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vương vào thân đa trước đình làng.
Ðã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.
- Con trai ... con trai mà... yên tâm, con trai ... Ðể yên em ẵm, anh vụng lắm...
Nhiều giờ trôi quạ. Mưa tuôn, gió thổì. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.
Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôì. Một giọng nghẹn sặc với lên:
- Cứu mẹ con tôi mấy ... cứu mấy ... con gái tôi ...
Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thõng. Tôi vội cúi xuống, đưa tay rà. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi "ối" kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, san xuống làn nuớc tối tăm.
- Trời ơi! Con tôi ...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống hòng chụp lấy con.
Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tayđang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi ...
Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp ngườì. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc, ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy cũng bất lực không tìm thấỳ. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đì. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:
- Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Ðã bú, đã ngủ rồi đây nàỳ. Ngoan chưa này ...
Ôi chao, nó tè dầm rồi nàỳ.
Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôì. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn. Choáng váng, chết lặng, tôi nén một tiếng kêu thất thanh.
- Con tôi ... - Tôi òa khóc, đỡ lấy bọc chăn. - Con tôi!
Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ đẹp nhất làng. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết. Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lờì.208
Vào một quán cà phê không đèn. Nàng hỏi chàng:
- Em ngồi bên phải hay bên trái anh đây?
- Bên nào cũng được, anh thuận cả hai tay.
2099
Có một điều làm tôi trăn trở
Bao tháng ngày cắt nghĩa không ra
Rồi sớm ấy tôi thấy loài hoa
Người đời gọi là hoa trinh nữ
Những lúc bướm ong về bên hoa tình tứ
Hoa lại thẹn thùng khép lá tương tư
Tôi hỏi gió :"Hoa ngủ đấy ử"
Gió thì thầm bảo rằng : "Hoa xấu hổ"
À vậy đấy thật là rõ khổ
Có thế mà suy ngẫm mãi chẳng ra
Mà có đâu chỉ riêng mỗi loài hoa
Tất cả mọi loài khi yêu đều vậy cả
Tới bây giờ tôi mới hiểu được điều khó tả
Rằng tại saọ.. người ta nhắm mắt... lúc hôn nhau1505