Quả phụ trẻ tuổi cho ghi lên tấm bia mộ của người chồng vắn số:

- Nỗi đau khổ của em quá lớn, em không thể chịu đựng nổi.

Ít lâu sau, người ta thấy nàng lập gia đình và đọc được trên tấm bia:

- Nỗi đau khổ của em quá lớn, em không thể chịu đựng nối một mình.
1435




Ai đã tạo cảnh đời thảm khốc ?
Nước mắt nhiều hơn biển và sông.
Nhân sinh kẻ đợi người mong
Phước phần mệnh số đục trong đâu ngờ.

Ai đã tạo cảnh đời ngang trái ?
Lắm khổ sầu đeo mãi vào thân.
Lòng người sao biết đo phân.
Đổi thay, thay đổi ái ân quên rồi.

Ai đã tạo cảnh đời lừa dối ?
Khéo mưu mô khuấy rối hại người.
Gạt thầy, phản bạn mỉm cười.
Diển tuồng nhân ái dối lừa dân gian.

Kẻ bạc tình, tào khang chẳng kể
Nỡ lòng nào để khổ cho người
Say mê hoa lạ vui cười
Mặc cho con, vợ giữa đời bơ vơ !


*



Giữa mùa hè năm 1976. những Thuyền-Nhân Việt Nam tị-nạn tại Pháp mới bắt đầu ra khỏi trại tạm cư để chánh-phủ cho đi định cư rải rác khắp nước Pháp. Và cũng có rất nhiều gia đình người Pháp hoặc Việt có quốc tịch Pháp hồi-hương. Ngoại trừ những ông Tây, chức giám-đốc có trách nhiệm cho hãng xưởng là phải ở lại bảo vệ tài sản theo lệnh của Tổng Thống Pháp V. Giscar d’Estaing. Phần nhiều những ông giám-đốc ấy, họ cho vợ con về Pháp trước...
Trong những ngày tháng ở lại Sàigòn, những ông giám-đốc sống một mình cô độc thì có biết bao đàn bà con gái đeo theo "bám víu" các ông, để có chút hy vọng dược các ông bảo lãnh đem ra khỏi ngục tù cộng-sản. Dù là Thánh đi nữa cũng khó tránh nổi những cành hoa tươi đẹp nhỡn nhơ gợi tình trước mắt các ông. Có ông "đi" qua đường rồi còn nghĩ nhớ đến vợ con, và cũng có những ông thay lòng đổi dạ đam mê bị "dính" luôn mà không màn gì đến vợ con đang bơ vơ trên xứ lạ quê người. Sau khi Sài Gòn thay tên đổi chủ thì cũng có biết bao cảnh đời biến đổi; từ hạ, trung hay đến thượng lưu cũng không tránh khỏi. Thật là một cuộc đổi đời lớn nhứt trong lịch sử Việt Nam !


*

Line, người thiếu phụ lai hai giòng máu Á-Âu, tuổi ngoài ba mươi, dáng vóc trung bình, khuôn mặt đẹp hao hao giống nữ tài tử Grace Kelly. Line khóc ! Đôi mắt hiện lên sự lo lắng, đang ngồi dưới hầm métro Saint-Michel với ba đứa con ; đứa con trai lớn 11 tuổi, đứa kế 9 và con gái út 7 tuổi, xung quanh năm sáu chiếc valise khá lớn và mấy xách nylon bên trong đựng những đồ lỉnh nghỉnh...
Christophe, đứa con trai lớn thấy mẹ chậm nước mắt :
- Sao má khóc ? Ba nói đi lên mua thuốc lá sẽ trở lại liền. Mà sao lâu quá vậy má ?
Hai đứa kia cũng hỏi theo... Line nhìn các con, nàng trấn an :
- Chắc ba con ghé uống cà-phê nên mới lâu vậy !
Một tiếng đồng hồ đã trôi qua, trong lòng Line có linh cảm là chồng nàng sẽ không trở lại. Nhưng nàng chẳng biết phải làm sao, mà chỉ kiên nhẫn ngồi chờ đợi. Thời gian trôi qua thêm hơn một tiếng đồng hồ nữa cũng chẳng thấy ông chồng đâu. Mấy đứa nhỏ mắc tiểu, chúng ngồi tè đại bên đường mương nhỏ. Bao chuyến métro đã ngừng và chạy qua. Mấy đứa nhỏ bắt đầu đói bụng đòi ăn. Đã hơn tám giờ tối rồi. Line soạn trong bịt còn bao bánh Lu mở ra đưa cho các con ăn, và mở chai nước cho chúng uống.
Trời vào mùa hè nên ở trên đường còn nắng sáng. Métro thưa dần thỉnh thoảng mới có một chuyến. Line chẳng biết về đâu đêm nay nếu chồng nàng đi luôn ! Vì giữa Paris nàng không quen ai cả. Một mình với ba đứa con. Nàng quên nghĩ đến chuyện mướn khách sạn. Mấy đứa nhỏ ăn hết gói bánh nhưng không đủ no. Chúng đòi ăn nữa... Line vừa khóc vừa nói với con nửa tiếng Pháp nửa tiếng Việt... Một ông hành khách người Pháp trạc tuổi bốn mươi, trên gương mặt hiền từ đến ngồi kế bên băng chờ xe. Ông nghe thoang thoáng và hiểu được những lời tiếng Pháp xen kẽ với tiếng Việt. Ông quay lại hỏi Line :
- Chào bà ! Bà và các cháu từ đâu đến vậy ? Bà có quen ai ở trên này không ?
Line nhìn người đàn ông lạ, nàng rụt rè trả lời :
- Tôi ở Nice ! Tôi chẳng quen ai ở đây cả.
Người đàn ông ngạc nhiên thốt lên :
- Nice ! Mà sao bà và các cháu... đồ đạc nhiều như vầy ? Bà lên đây làm gì ?
Mấy đứa nhỏ ngồi cạnh mẹ, mắt nhìn người đàn ông lạ không chớp. Chỉ có Christophe là hiểu và biết nói tiếng Pháp. Còn hai đứa kia thì hiểu và nói rất ít. Christophe trả lời thay mẹ :
- Má cháu, và tụi cháu chờ ba !
- Ủa ! Ba của cháu đâu ?
- Ba cháu nói, lên trên đường mua thuốc lá, rồi trở xuống liền. Nhưng đã mấy tiếng đồng hồ rồi mà ba cháu chưa trở lại.
Line nghe con nói, cổ họng nàng như bị nghẹt, nước mắt trào ra và lắc đầu :
- Không biết chồng tôi có bị chuyện gì không mà đi lâu quá ? Từ hồi sáu giờ đến giờ đó ông à !
Métro dừng và chạy qua hai ba chuyến rồi mà người đàn ông lạ ấy không màn. Ông lại lo lắng cho thân phận bốn mẹ con của Line. Ông nghĩ : "Nhà mình chỉ có một phòng làm sao chứa hết đây ? Nhưng mình thấy hoàn cảnh của kẻ bơ vơ thì làm sao làm ngơ được. Trông người đàn bà này cũng hiền, mấy đứa con cũng ngoan. Chắc không phải là thành phần xấu ? Mình phải cứu người nhất thời mới được !’’. Ông nghĩ xong, liền quay lại hỏi Line :
- Bà và các cháu có thể đến ở tạm nhà tôi, nếu chút nữa chồng bà không đến. Bà có tin tưởng tôi không ?
Line nghe người đàn ông hỏi thế. Nàng lại nghĩ : "Không còn cách gì hơn ? Người này, chắc là Quới-Nhân đến độ mẹ con mình rồi !". Line nhìn người đàn ông, nàng gật đầu và nói :
- Cám ơn ông có lòng tốt muốn cứu mẹ con tôi. Tôi bằng lòng đến nhà ông ở tạm vài ngày, rồi sẽ tính sau...


*

Tất cả khệ nệ những chiếc valise lên từng lầu ba, nằm trên đường Monge quận 5 Paris. Vào nhà của người đàn ông lạ. Thật sự căn phòng nhỏ hẹp cỡ ba chục thước vuông, nhưng đầy đủ tiện nghi. Ông bảo Line cho mấy đứa nhỏ tắm rửa thay quần áo xong ông sẽ dẫn xuống đường ăn Pizza. Vì nhà ông chẳng có món gì ngoài phó-mát.
(...)
Ăn xong tất cả trở lên. Người đàn ông lạ trải mền dưới sàn nhà cho bốn mẹ con của Line ngủ. Còn ông thì để nguyên canapé-lit (sofa) không mở ra, ông nằm trên đó ngủ.
Vì suốt ngày ngồi xe lửa từ Nice lên Paris, và mấy tiếng đồng hồ ngồi dưới métro. Hơn nữa, trời nóng nực nên bốn mẹ con của Line mệt đừ. Line nghe ông chủ nhà đã ngáy khò khò. Ba đứa nhỏ cũng đã ngủ. Chỉ có Line là còn nằm thao thức mà nước mắt cứ tuôn trào... Rồi nàng cũng thiếp luôn một giấc tới sáng.

Ông Paul, người chủ nhà thức dậy trước. Ông bấm nút nấu nước pha cà-phê rồi mở cửa nhè nhẹ đi xuống đường mua bánh mì. Khi trở lên thì mấy mẹ con của Line cũng đã thức dậy và đang xếp mền. Nét mặt hiền từ của ông Paul làm mấy dứa nhỏ không sợ sệt. Ông đến gần con bé Annie hỏi :
- Sao, cháu ngủ ngon không ?
Bé Annie gật đầu. Còn bé Éric thì lõ hai con mắt to tròn nhìn ông Paul mà mỉm cười. Line phụ dọn mấy cái tô nho nhỏ để trên bàn nhỏ bên góc. Ông Paul đem hộp sữa, ca-cao và bơ ra. Tất cả cùng nhau ăn điểm tâm...

Đến trưa trưa, Line hỏi ông chủ nhà :
- Ở gần đây có khách sạn nào rẻ tiền không vậy ông ?
Ông Paul trả lời không cần suy nghĩ :
- Có nhiều lắm.
- Nhờ ông dẫn tôi đi mướn một phòng ở đỡ trong thời gian này.
Ông Paul ngập ngừng rồi nói :
- Bà và các cháu cứ ở tạm nhà tôi. Rồi từ từ tìm nhà mướn, chứ mướn khách sạn mắc tiền lắm !
- Cám ơn ông đã giúp đỡ mẹ con tôi. Ở đây nữa làm phiền ông quá.
- Bà đừng ngại.


*

Thế rồi, bốn mẹ con Line ở nán thêm mấy ngày. Khi ông Paul đi làm thì ông giao nhà cho mấy mẹ con Line. Và ông cũng thăm hỏi bạn bè ông trong hãng, coi ai có phòng cho mướn không. Cuối cùng ông có người bạn có căn "appartement" hai phòng đang bỏ trống ở quận 18, bằng lòng cho Line mướn hai ngàn quan mỗi tháng, với điều kiện phải đưa ông trước sáu tháng tiền nhà. Line nghe vậy, nàng mừng quá và vội vàng đi đổi tiền đô-la ra tiền pháp. Cũng may là Line có tiền !
Line cùng ba đứa con dọn đi. Line kín đáo đưa cho ông Paul một ngàn quan để gọi là tạ ơn trong một tuần lễ ăn ở tạm nhà ông. Nhưng ông Paul từ chối nhứt định không lấy.
Sau đó, Line liên lạc được người em gái tên Céline đang ở Genève (Thụy-Sĩ). Céline tưởng chị mình yên thân, nhưng không thể nào ngờ chị mình lại bị ông chồng tàn nhẫn bỏ rơi giữa thủ đô Paris đầy nguy hiểm. Nghe thế, nàng tức tốc thu xếp đi qua Paris sống chung cùng chị và các cháu.
Hai chị em Line tuổi vừa ngoài ba mươi sắc vóc còn trẻ đẹp. Céline đi tìm việc làm trong những hộp đêm, nhà hàng và những quán cà-phê ở trung tâm Paris. Cuối cùng hai chị em được việc trong một nhà hàng sang trọng. Line tiếp viên, đưa khách vào bàn, còn Céline thì giữ áo. Line lo cho các con vô trường học đàng hoàng.

Một năm sau, có ông khách "đa tình" bằng tuổi Line, chàng thương yêu Line tha thiết. Một thời gian ngắn Line đệ đơn ly dị chồng, rồi được người tình mới cưới Line làm vợ. Céline cũng được tương tựa chung hoàn cảnh như chị. Hai chị em đều có chồng rất khá giả.
Sau khi Line lấy chồng khác. Line nghĩ đến ông chồng cũ. Vì các con, nên Line liên lạc lại với ông cho các con gặp mặt cha.
Người đàn ông bạc tình kia, bị cô vợ sau bỏ rơi, nửa năm sau khi đem cô qua Pháp. Bởi cô mượn ông làm chiếc đò đưa qua mà thôi. Ông buồn tình, nên muốn gặp lại người vợ cũ, trong lòng ông hy vọng Line sẽ tha thứ để nối lại tình xưa... Từ Nice ông lù lù lên gặp Line và các con. Ông ngỡ ngàng thấy Line sống sang giàu trong căn nhà tại quận 16 Paris. Ông tự thấy lòng hổ thẹn và buông lời :
- Thật, anh là một thằng tồi, một thằng ngu, một thằng đàn ông bạc tình, bạc nghĩa. Chúc em được hạnh phúc mãi mãi.
Line mỉm cười, không một lời trách móc...


Thế mới biết trời cao có mắt
Oan oan, trái trái ắt trả vay
Người chồng bội bạc hôm nay
Một thân, một bóng đêm ngày ăn năn
2002






Ðiều đó, dẫu không thể thật, nhưng ai nghe ai cũng vui lòng. Tôi nuốt nước bọt, không nhìn Hương, mỉm cười đáp lại « ... chỉ Hương, Hương mới không có gì thay đổi. Còn Vinh, này nhìn xem, tóc Vinh chớm bạc mất rồi ! ». Tay vặn cửa kính xe, tôi ngửa mặt hứng gió và nắng vàng tươi. Vòng quanh hồ, xe qua góc chợ rồi từ từ lăn lên dốc Minh Mạng. « Vinh thấy có khác không ? » Tôi lắc đầu. Hương nói như than thở « Ở đây, hiện tại chỉ cách quá khứ bằng một chút tuyệt vọng ».

Tôi quay lại nhìn Hương, và có gì gần như một niềm bực bội sắp sửa tràn ra tựa nước rót quá tay vào một chén trà tầu hạt mít. Kềm lòng mình, tôi cố gắng lấy giọng thanh thản « Màu nắng vàng ở đây tươi như nắng ở Florence bên ý». Hương nhìn ra, bàn tay víu lấy mái tóc dài bay tung lên, mắt xa xôi. Gỡ dăm sợi tóc đen huyền vướng vào mặt, tôi quay kính xe lên khi xe đến đỉnh dốc.

Chiếc xe ngừng hẳn. Hương nói : « ... đến rồi, Vinh có nhận ra nhà mình không ? » Tôi nhìn quanh, ngỡ ngàng. Khi xưa, khu này chỉ dăm ba nóc nhà hiu quạnh. Nay thì khác, nhà đủ kiểu đủ cỡ san sát. Thản nhiên, Hương bảo « ... dân ngoài ấy vào đấy. Họ chia đất, thế là mạnh ai nấy xây». Tôi ngơ ngác xách vali theo. Hương đi trước, lấy chìa khóa mở chiếc khóa đồng treo trên sợi xích hoen rỉ buộc hai cánh cổng gỗ sơn đã rã ra loang lổ.

Chúng tôi lẳng lặng bước vào. Tôi dán mắt lên từng ô vuông trên mặt đất, rồi ngửng nhìn quanh vườn, mong tìm lại dấu vết thuở ấu thơ. Bên kia là cây đại, không cao hơn, chỉ thêm sần sùi. Bên này giàn dâm bụt vẫn thế. Trong sân, cỏ úa. Mảnh hồ bán nguyệt nay cạn nước nằm vênh vao mặc cho ông Lã Vọng bằng đất thó vẫn ngồi lì câu cá. Bước lên thềm, những chậu kiểng nay xác xơ. Ngay cửa ra vào, chỉ có một chậu cây, lá dài và dầy, đâm ra từ những cuộng cây màu nâu già, chĩa ngang chĩa dọc, ánh lên sắc ngọc bích dưới nắng. Tôi ngừng chân, tay để chiếc vali xuống. Hương mở cửa, giọng đều đều « ... Cây quỳnh của cậu đây. Hương vẫn chăm nom, và thế là nó đã được xấp xỉ ba mươi tuổi rồi.»

*

Hương dặn dò : « Có một đoàn người Pháp lên, Hương không xin nghỉ được. Chỉ độ sáu giờ là Hương về. Ở nhà, thức ăn đã sẵn, Vinh chỉ hâm lên thôi ! ». Vén vạt áo dài trắng, Hương lên honda, rồ máy, ngoái lại : « Vinh nghỉ ngơi trưa nay một tí đi nhé ». Ra khép cổng, tôi nhìn theo cho đến khi bóng Hương khuất nơi dốc đồi, rồi lững thững vào. Ði ngang chậu hoa quỳnh, tôi ngần ngừ, ngồi bệt xuống cạnh, lưng ngã dựa vào bức tường vôi vàng nhạt thếch.

Nhắm mắt lại, tôi thoáng ngửi thấy một mùi hương thơm. Thơm dịu, thơm ngọt, mùi hương chợt đến, chợt đi, như đùa nghịch với khứu giác. Tai tôi bỗng văng vẳng lời bác Ðản, giọng khàn khàn « Quỳnh mở vào độ chín giờ tối. Ðến nửa đêm thì mãn khai. Rồi tàn. Vào khoảng bốn giờ sáng thì hoa cụp lại, và thế là hết... ». Cha tôi kể người yêu đầu của bác tên Quỳnh. Bác gái không biết, cứ tưởng bác trai yêu hoa, chịu đặt tên hai cô gái song sinh đầu lòng là Quỳnh và Hương. Bác tiếp « ... Quỳnh là loài hoa hiếm, nhưng tối nở sớm tàn... Vinh lên nghỉ hè kỳ này gặp dịp hoa nở chắc sắp tới sẽ may mắn lắm đấy ! ».

Tối hôm ấy, bác tắm rửa, rồi pha trà tầu, sai người đi mua bánh đậu xanh và kẹo lạc. Quỳnh được bố yêu, nũng nịu « Quỳnh này thì không tối nở sớm tàn đâu nhé !» Nhìn mẹ, Quỳnh dỗi « ... hoa quí thế mà sao mợ lại cứ đòi đổi tên con.» Quả là bác gái có định thế, một phần là biết chuyện mối tình đầu của bác trai nên bác ghen, phần khác, bác nói ra miệng là do dị đoan, sợ cái kiếp tối nở sớm tàn vận vào đời con gái. Bác trai bảo « ... thiếu gì đàn bà tên Quỳnh. Với lại, mợ nhìn thử xem, cái nốt ruồi trên gò má con Quỳnh. Các cụ ví nó như giọt nước mắt, có tác động phá đi cái xấu của cái tên. Không phùng không, tắc minh. Nếu đổi tên, thì cũng phải tẩy cái nốt ruồi ấy ». Quỳnh la lên « Không được ! Mất cái nốt ruồi, thì con thành Hương à ? ».

Quỳnh và Hương đúng là hai giọt nước chỉ độc có một điểm khác biệt là vết nốt ruồi nhỏ bằng ba cái đầu tăm. Quỳnh nằng nặc đòi làm chị, lấy cớ là ra trước. Bẻm mép, nàng đọc « Ðầu lòng hai ả tố nga, Tú Quỳnh là chị, em là Tú Hương. Ðọc thế thì nghe lọt, chứ đổi Tú Hương là chị, em là Tú Quỳnh thì anh ác trái tai. Vì thế Quỳnh phải là chị, chứ em thế nào được ». Bác trai cười tán đồng. Bác vốn yêu thi ca, xưa đã xách túi giang hồ theo hầu cụ Tản Ðà cả hai năm trời. Nay, về ở ẩn, bác ngồi dịch thơ Ðường. Và dạy dăm giờ Pháp văn cho một trường trung học tư thục, đồng ra đồng vào tùy thuộc vào sự thu vén của bác gái. « Bác gái, mẹ tôi thì thầm dặn mỗi lần tôi lên nghỉ hè, có bệnh lao, chữa thì chữa nhưng khỏi thì ai mà biết được, con nhớ cẩn thận » Nhưng cẩn thận thế nào thì mẹ tôi không biết, chỉ cằn nhằn cha tôi chiều con. Với tôi, mẹ càu nhàu « ... cái thằng bé đến lạ, nghỉ hè năm nào cũng đòi lên bác Ðản ! Cho đi Vũng Tầu thì kêu sợ nắng ...». Mẹ nói thế, vì không biết vô tình hay cố ý, mẹ lờ đi điều bí ẩn trong lòng con trai mẹ.

Giọng bác lại khàn khàn cất lên « Khi cụ Tản mất, cụ Huỳnh Thúc Kháng có làm một câu đối, ví cụ như hoa quỳnh. Câu đối như thế này :

Không sắc nhất Quỳnh hoa, tiếu khứ hâu nhiêm, thiên thượng quần tiên đa quyến thuộc

Túy ngâm song bạch nhãn, hứng lai huy bút, nhân gian thiên thủ ngạo công hầu.

Nhìn ba đứa chúng tôi ngơ ngẩn, bác chậm rãi : « giảng nôm ra là Không sắc một đóa Quỳnh,về vuốt râu chơi, bạn tiên thượng giới thành quyến thuộc. Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ vung bút, tài hoa trời phú ngạo công hầu ».

Bác vừa dứt lời, chuông đồng hồ treo tường rền rĩ điểm mười một tiếng. Ðóa quỳnh to bằng hai bàn tay đã bung nở, nhị hoa màu vàng óng ánh ẩn trong những cánh hoa trắng tinh khiết, chung quanh lớp ngoài những cuống hoa màu tím hồng cong lên như râu. Bác Ðản xòe chiếc quạt giấy rồi phẩy nhẹ. Không gian bỗng thoang thoảng một mùi thơm dịu dàng nhưng đằm thắm. Bác ngẩn ngơ đưa chén trà lên miệng nhắp. Quỳnh lẳng lặng ra ngồi trước chiếc đàn dương cầm màu đen nháy. Nàng dạo nhẹ vài nốt, rồi chơi đoản khúc Ánh Trăng của Beethoven.

Tôi đứng dậy lững thững ra đứng cạnh cửa sổ. Trăng mười sáu đã lên cao, mây theo chiều gió chập chờn trôi từng tảng. Núi đồi ở tầm mắt nhuộm bạc, ẩn hiện, biến hóa như một sinh vật lẩn trốn trong màn đêm khi mờ khi tỏ. Mùi hoa quỳnh thỉnh thoảng lại ngát lên, ấp ủ gian phòng tràn ngập tiếng đàn đang nhỏ từng giọt âm thanh nghe hững hờ xa vắng. Quỳnh chập chờn trong ánh lửa lò sưởi, tóc dài ngang lưng xòa phủ một nửa mặt, ngón tay trắng muốt nhảy múa trên những phím ngà. %3
CBR>
Tôi quay về, ngồi cạnh bác Ðản, im lặng. Ngồi khuất trong bóng tối, Hương lẳng lặng đan áo. Chìm đắm vào cảm giác ngất ngây của nỗi đau khó gọi được tên, tôi như đánh mất một phần hồn mình mặc dầu lát sau tiếng đàn đã im bặt. Quỳnh đến đứng cạnh, nhẹ nhàng bảo : « Chị đánh tặng cho Vinh đấy... ». Từ năm ngoái, nàng xưng chị với tôi, chứ không gọi tên tôi như xưa. Hỏi, nàng bảo, hơn tuổi thì là chị. Ðúng là nàng hơn tôi vài tháng thật, nhưng tôi ấm ức, vẫn tiếp tục gọi nàng là Quỳnh.

Bác Ðản đợi đến nửa đêm, lúc hoa mãn khai, lộng lẫy như một nàng tiên đang tung giải áo trắng lên múa khúc nghê thường trên đài hoa cứ rung lên nhè nhẹ, đứng dậy bảo « Thôi cậu đi nằm ... » Hình như bác sợ, bác không muốn nhìn cảnh bông hoa bắt đầu tàn. Hương ngước nhìn bác, rồi lại cắm cúi tiếp tục đan. Tôi nhìn Quỳnh, hỏi « Quỳnh sao không đánh thêm một bản nữa ... ». Hương nhẹ nhàng, ngắt lời « Thôi, để cậu mợ ngủ chứ ! », và vẫn tiếp tục đan.

Lúc Quỳnh đòi đi ngủ, tôi giả vờ ngáp, rồi bước theo. Ði sau Quỳnh lên cầu thang, tôi thu hết can đảm, run giọng « Quỳnh ơi, lúc nào Vinh sống, Vinh sẽ nhớ mãi bản đàn đêm nay...» Quỳnh ngưng bước, quay lại, giọng hóm hỉnh « ... thôi đi cạâu em ơi, cứ qua đấy dăm tháng là quên chị ngay, nhớ gì nữa... Gặp một nàng đẹp như Gina Lolobrigida thì rồi cạâu quên hết ngay ấy mà ! » Tôi xót xa, bụng thắt lại, xây xẩm như bị tát vào mặt. Tôi nhìn Quỳnh, không thấy gì ngoài cái vết nốt ruồi trên gò má.

Ðêm hôm ấy, tôi không nhắm mắt nổi. Tôi biết chỉ có Hương thấy cảnh hoa tàn. Nàng thức đến sáng, đan cố cho xong chiếc áo len tôi mang theo từ ngày qua ý. Ði được hai năm, có tin báo là « chị » Quỳnh vừa lấy anh Thạc, sinh viên trường võ bị Ðà Lạt mới ra trường. Họ yêu nhau đã ba năm, có lẽ vào thời gian Quỳnh xưng chị với tôi.

*

Lên gác, tôi đẩy cửa phòng xưa bác Ðản dùng như phòng làm việc. Nay là nơi để bàn thờ hai bác. Ảnh cũ, nét đã vàng, khiến những người thân yêu nhợt nhạt đi như ở một thế giới khác. Tìm mãi tôi mới lấy được dăm cây hương. Châm lửa, vẩy cho tắt, tôi cắm vào lư, mắt nhắm lại, cố tìm ra hình ảnh hai bác sinh động hơn hai bức ảnh lạnh nhạt. Tôi cố, nhưng bất lực. Mở mắt, những đốm hương bỗng tự nhiên bắt lửa bùng lên. Lạ thật. Phòng kín, không một cơn gió nào lùa vào được. Tôi bỗng thấy lạnh xương sống. Tôi cúi mình chắp tay vái, mắt lại nhắm lại. Khi mở mắt, lửa đầu những cây hương đã tắt, ba chấm đỏ nhả những vân khói xanh thẫm lên không. Tai tôi bất chợt thoáng nghe một tiếng cười thân thuộc. Lúc ấy, tôi biết rõ ràng là bác Ðản từ cõi âm về đứng ngay sau lưng tôi, và không quay lại, tôi cảm thấy bác đang nhìn tôi trìu mến. Biên giới vô hình giữa bác và tôi được một thứ hấp lực giữ cân bằng khiến tôi chẳng thể xoay người để nhảy vào vòng tay bác như thuở còn thơ. Từ cõi dương, tôi để măïc mình thanh thản thả trôi tâm thức vào thế giới bên kia như xuôi dọc một dòng sông bình dị.

Mùi hương trầm dìm ý thức của tôi vào một niềm linh hiển đang chuyển hóa huyễn hoặc thành thực tại. Quá khứ ở đâu ùa về choáng ngợp. Tôi sống với cái cảm giác lần cuối lên nghỉ hè, xem hoa quỳnh nở, để chỉ tháng sau ra Tân Sơn Nhất bay đi một phương trời lạ. Tai tôi văng vẳng lời bác trai dặn dò ở bến xe Ðà Lạt cách đây hơn hai mươi năm « Vinh đi được, bác mừng. Ở đây rồi thì cũng lính tráng như mọi người, không chết thì cũng thương tật. Không thương tật phần xác, cũng thương tật phần hồn... ». Bác ngừng nói, chép miệng « về họa, bác chỉ biết mỗi Modigliami là người ý, nhưng với kiến trúc và lịch sử của họ, chắc họ có nhiều grands maitres đấy... ». Bác tần ngần, nắm tay tôi «... học vẽ, con chắc không thoát ra cái kiếp nghệ sĩ, vừa khó, lại vừa khổ. Khổ cái khổ con người, và khó là dùng nghệ thuật mang đến cho con người cái vượt lên sự khổ. Ðó phải chăng là hy vọng ? » Tôi nhìn bác. Vắng Quỳnh. Nàng bảo bận, không đi tiễn. Tôi nhìn Hương. Hương lẳng lặng nhìn tôi. Không nói. Không cười. Tôi nghẹn ngào, leo vội lên xe. Linh cảm là sẽ còn lâu, hoặc không bao giờ, tôi lại quay về sống những phút dịu dàng như những ngày tháng vừa qua, tôi ứa nước mắt.

Khi đưa tay lên quệt những giọt nước mắt hai mươi năm sau vẫn chưa khô, tôi buột miệng « ... thế mà cứ tưởng là thời gian có thật ! » . Hướng về phía bàn thờ, tôi vái thêm ba vái, rồi đóng cửa gian phòng, bỏ đi xuống. Ðẩy mấy thanh củi vào lò sưởi, tôi loay hoay nổi lửa. Mùi gỗ thoáng thơm nồng, tiếng củi khô lách tách, và ánh lửa bập bùng khiến tôi tìm lại được sự thanh thản an bình của tuổi thiếu thời. Tôi ngả lưng vào chiếc ghế bành đệm bọc nỉ, chợp mắt lúc nào không biết.

Lúc choàng dậy, ai đó ngồi trước mặt tôi, miệng mỉm cười. Tôi giụi mắt. Vết nốt ruồi trên má hiện rõ ra. Ðó là giọt lệ theo lời ví các cụ ngày xưa, và hẳn phải là Quỳnh. Tôi hỏi. Vẫn cái giọn hóm hỉnh, « Quỳnh đây !». « Thế là Quỳnh ư ? Quỳnh về lúc nào ? Sao không đánh thức Vinh ngay ? » « Thấy Vinh ngủ ngon quá, không nỡ. Ðợi cho Vinh dậy, đi xa về chắc mệt.». Tôi chồm dậy : « Không, không có gì mệt cả. Mà sao Quỳnh không xưng « chị », chị Quỳnh như thuở Vinh đi ?». Quỳnh cười, vẫn giọng cười ngày xưa, trong vắt và sắc cạnh : « Bây giờ, không cần. Ta lớn cả rồi. Quỳnh ba con, đứa lớn nhất mười tám, sắp gả chồng đấy ».

*

Quỳnh cau mặt, chân mày nhếch lên, vết nốt ruồi lăn như giọt lệ đang rơi, trề môi buông thõng « Từ tương lai, kẻ đi tìm quá khứ hẳn đang đặt một dấu hỏi với hiện tại của mình, phải không ? ». Tôi thầm nhủ, đâu phải là bay từ một phương xa về đáp xuống Tân Sân Nhất cách đây vài bữa mà tôi đến từ tương lai. Không lẽ tương lai với những người ở đây chỉ là đủ miếng ăn hôm nay và không sợ đói ngày mai ? Quỳnh hiểu gì về những đêm tôi một mình uống cho đến độ không còn biết mình là ai, chẳng phải vì ngậm ngùi với quá khứ mà là ngỡ ngàng rồi hốt hoảng cho phần đời còn lại. Tránh trả lời, tôi giả giọng trách móc « Sao Quỳnh không hỏi thẳng ? », lòng hy vọng Quỳnh sẽ nhắc tôi kỷ niệm đêm xem hoa nở và lời tôi nói lưng cầu thang với Quỳnh. Và tôi, tôi sẽ nhắc lại nguyên văn câu nói xưa. Cảm động, Quỳnh sẽ nhìn tôi, nước mắt ứa ra chảy dài xuống má. Tôi sẽ lẳng lặng lau nước mắt, nói nhỏ như an ủi một đứa bé vừa ngã « ...thôi mà, thôi xong rồi. Ðứng dậy đi, đứng dậy... ». Nhưng Quỳnh lại nhìn thẳng vào mắt tôi, diễu cợt « Hỏi gì ? Có những điều không nên hỏi thẳng - Quỳnh ngước lên, ánh mắt vẫn châm chọc, tiếp - chẳng hạn như Vinh về đây làm gì ? Có phải là Vinh đang tìm lời giải đáp cho cái câu hỏi đó ? ». Tôi khựng lại, chẳng nhẽ bây giờ không còn ai có thể nghĩ đến một ai khác ngoài chính mình, thậm chí cả đến khi đặt một câu hỏi cũng lại chỉ trong vòng ích kỷ quanh quẩn cái tôi, tôi là, tôi có... ? Bực mình, tôi sẵng « ...nếu tương lai là dấu hỏi, quá khứ đã và còn là dấu hỏi, thì hiện tại bị kẹp ở giữa ắt cũng là dấu hỏi. Cứ cho là Vinh đi tìm quá khứ để có lời giải đáp cho dấu hỏi với hiện tại đi. Nhưng đó cũng là lời giải đáp dấu hỏi của quá khứ, và biết đâu, đó cũng lại là lời giải đáp cho tương lai ? ». Quỳnh quay lưng, xuống thang, cười nhạt « ... lãng mạn thật, bây giờ người ta nói thế là cực lãng mạn ».

Ðến ngồi cạnh lò sưởi, Quỳnh cời than cho lửa bùng lên, đôi vai thon gầy nhô cao che đi phần cổ trắng nõn nà. Tôi quay nhìn về nơi đặt chiếc dương cầm đen nháy ngày xưa, mắt thoáng hiện mớ tóc dài, những ngón tay nhẩy múa, và ngửi thấy mùi hoa quỳnh đâu đây thoảng lại. Như đoán được câu tôi sẽ hỏi, Quỳnh lửng lơ « ...đàn bán rồi. Bán đàn nuôi được cả nhà này hai tháng cơm canh đấy ! ». Trạnh lòng, tôi nói như máy «...thế thì lâu lắm rồi Quỳnh không đàn nữa nhỉ ». Câu nói vừa thừa vừa vô duyên. Quỳnh nhún vai «...lâu lắm không sống nữa, nói chi đến chuyện đàn ! », chữ sống gằn xuống nghe nặng như chì đổ. Giọng bỗng vui hẳn lên, Quỳnh hỏi « còn cái sonate đó, Vinh có nhớ không ? ». Dẫu hiểu, tôi cố tình hỏi «...cái sonate nào ? ». Cười ròn, Quỳnh reo « Ðấy, đã bảo mà, sẽ quên ngay thôi. Cái sonate Ánh Trăng Vinh nghe trước khi về Sài Gòn rồi lên đường sang ý, Vinh không nhớ à ? ». Tự nhiên lòng căm lại thành một khối băng, tôi mím môi, lắc đầu. Quỳnh nhìn vào mắt tôi, hóm hỉnh « ...lắc đầu nhớ hay lắc đầu quên ». Tủi thân, tôi mỉa lại, « Quên, quên thật đấy, “chị” Quỳnh ạ ! ». Nghe đến đấy, Quỳnh phá lên cười, chạy ra mở tung hai cánh cửa sổ.

Quỳnh vẫn cười, tiếng cười như chuông ngân. Bên ngoài, nắng vẫn tươi rói trên dốc đồi soai soải mầu xanh chạm cạnh những vạt bóng chênh chếch dưới ánh mặt trời. Gió hiu hiu lạnh thốc vào, mái tóc Quỳnh như một giải lụa đen, bay tung ra sau. Tôi đến đứng bên cạnh Quỳnh. Những sợi tóc bay vướng vào mặt tôi như vuốt ve. Tay gỡ tóc, Quỳnh ngước mặt nhìn tôi khiêu khích.Vết nốt ruồi, giọt lệ mầu đen ấy, nhập nhòa trên má tựa ảo ảnh, lúc biến lúc hiện. Tôi nhắm mắt. Niềm lo sợ đánh vỡ, như thuở nhỏ, khi tay cầm một món đồ cổ của cha tôi bỗng ùa lại. Tiếng Quỳnh mơ hồ «...cái dấu hỏi đó, Vinh cứ hỏi đi. Câu trả lời nằm ngay trong hiện tại, ở trước mắt, có muốn trốn cũng chẳng được ! ». Ðầu óc choãi ra trống vắng rồi tê liệt đi, tôi nghe bên tai «...anh Thạc anh ấy chết rồi, chết thật rồi ! ». Tiếng Quỳnh nói nhẹ như thở, hơi nóng phà vào mặt tôi, đốt lên một ngọn lửa âm ỉ đến độ tôi tưởng nó đã tàn lụi như lòng núi lửa khi chết chỉ còn để lại chút khốc khô nham thạch. Không biết từ lúc nào, hai tay tôi áp vào má Quỳnh. Tôi nâng mặt nàng lên, hai môi tôi áp xuống. Tôi hôn, điên dại hôn. Tôi nghe tiếng vỡ của sành của sứ của đồ cổ va vào mặt đá. Nhưng tôi vẫn tiếp tục hôn. Hôn lấy hôn để. Hôn đến lúc Quỳnh mềm nhũn ra, không thở được, tay cứ bíu vào vai tôi, mắt nhắm nghiền, môi vẫn hé mở. Cứ thế, tôi hôn, tôi ghì lấy cái thân thể mỏng mảnh kia, ôm như bế bồng thuở thiếu thời của tôi, của Quỳnh, cho vào nhập với hiện tại để thành hiện tại, nhưng vẫn mơ hồ nỗi sợ những bẽ bàng không đoán trước.

Bế thốc Quỳnh lên, tôi vào phòng, đặt nàng xuống giường. Vẫn khuôn mặt hình trái soan, vẫn chiếc mũi dọc dừa. Vẫn đôi môi hơi vênh lên, nhưng nay không có vẻ thách thức, lại như chiều chuộng, như cam chịu, như bảo bọc. Vẫn cái vết nốt ruồi như một giọt lệ, giọt lệ đen có cái tác động giải đi sự bất hạnh của kẻ mang tên một loài hoa hiếm trắng tinh khiết nhưng cam cái phận tối nở sớm tàn. Tôi hôn lên má Quỳnh, mắt không nhìn thấy vết nốt ruồi đâu nữa. Lẳng lặng, tôi cởi hết quần áo cho Quỳnh, mơn trớn rồi hôn trên từng phân vuông lớp da trắng xanh, rúc mặt vào từng vùng lau lách, liếm láp từng ngõ ngách, thở bằng mùi phấn hương đóa trà mi nở căng bần bật trên cái đài hoa bỗng nhận ra mùa xuân về muộn. Tôi xông vào. Tôi mặc kệ, mặc tiếng rên, tiếng hổn hển, tiếng kêu trời, tiếng nghẹn thở. Quỳnh gọi tên tôi, hai tay cấu lấy mông, cắn vào vai, có lúc lại òa lên khóc. Tôi làm tình như một tên tù vừa sổng ngục, cứ thiếp đi thì thôi, nhưng tỉnh dậy là tôi lại mơn trớn Quỳnh, mơn trớn tôi, và không một lời, tôi chỉ để thân xác tôi nói cho Quỳnh hiểu hết những điều tôi ấp ủ từ những hai mươi năm qua. Và nói cho tận tiệt.

*

Nửa mơ nửa tỉnh, tôi quơ tay sang bên cạnh, thấy trống trơn hụt hẫng. Tôi hé mắt nhìn. Chỉ có chiếc gối và tấm chăn đơn. Cửa sổ vẫn khép, nhưng ánh nắng đã le lói hắt qua những chiếc then gỗ. Tôi vùng dậy, bước ra mở tung hai cánh cửa cho gió nắng tràn vào. Vừa huýt sáo nho nhỏ, tôi vừa nhìn đồng hồ tay. Tôi gọi. Không có ai trả lời. Tôi xuống cầu thang, miệng ngân nga một điệu hát không thuộc lời.

Mảnh giấy để trên bàn ghi « sẽ về ngay, đi mua xôi cho Vinh, cà phê đã pha, sữa đặc và đường trên bàn ». Mỉm cười, tôi mở cửa ngoài, ra ngắm chậu quỳnh ngày xưa. Lá quỳnh đâm ra như những mũi dáo xanh ngắt nhưng dưới gốc có dăm ba cuộng héo đi vì thiếu nước. Tôi vào múc nước, nhè nhẹ rót xuống đất trong chậu cây nay khô ran. Nhớ vế câu đối xưa, hình như là « Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ vung bút, tài hoa trời phú ngạo công hầu », tôi lẩn thẩn vào nhà, ngồi xuống ghế, tay mân mê hộp mầu tôi mang theo định thực hiện dự tính vẽ lên khung vải cái tôi tha thiết gọi là tâm tư miền núi.

Rót cà phê vào tách, trước sân nghe lạch bạch tiếng Honda. Mở cửa, Hương bước vào, tay xách gà- mèn, miệng reo « A, Vinh dậy rồi. Hương đi mua xôi, loại xôi lúa ngày xưa Vinh vẫn thích đấy ! ». Tôi chưa kịp nhớ ra xôi như thế nào thì Hương chìa cho tôi một mảnh giấy, nói nhanh «...Vinh có điện tín, bưu điện đưa lại sáng sớm hôm nay ». Ði xuống bếp, Hương nói với lại «... Hương xẻ xôi vào bát. Vinh rót cho Hương một tách cà phê nhé ! ».

Cầm bức điện tín chưa mở, tôi bỗng phập phồng lo ngại. Người thân của tôi ở đất nước này chẳng còn ai, bạn bè tôi lại không có, vậy thì ai biết được tôi lên đến đây để liên lạc. Ngần ngại, tôi mở bức điện, đọc

Vinh than Stop Anh Thac, chi va cac chau ve thu sau toi tuan nay Stop Mua duoc ve xe lua tu Danang Stop Chi Quynh

Tôi lặng người. Thế vết nốt ruồi ngày hôm qua không có thật à ? Cắn vào ngón tay mình, tôi vẫn thấy đau. Nghĩa là tôi vẫn còn đây. Ðúng, tôi còn. Nhưng sự linh hiển của một thế giới bên kia có không ? Tiếng cười thân thuộc của bác Ðản có không ? Và những cây hương bùng lên cháy, tôi nhìn thấy, nhưng có thật không ? Thật là gì ? Có phải cái ta gọi là thật chỉ loanh quoanh trong vòng ngũ uẩn - nhìn, ngửi, nghe, sờ, nếm - hay còn gì nữa ? Tôi nghiến răng, ngón tay tôi đau điếng, miệng mặn vị máu đang ứa ra. Vậy là tôi còn đây, cứ tin thế đi. Thế thì Vinh đêm qua, Vinh có là tôi không ? Còn người đàn bà, là Quỳnh hay là Hương ? Nếu tôi hôm nay không là Vinh đêm qua, người đàn bà đó ắt là Quỳnh, loài hoa tối nở sớm tàn. Nhưng nếu Vinh đêm qua chính là tôi hôm nay ? Câu hỏi xoáy vào óc tôi theo đường trôn như bị đuôi những con mực ma cuốn dìm xuống biển. Hoảng hốt, tôi vội vàng thọc bàn tay ngón bị cắn chảy máu vào túi quần.

Hương đi lên, tay bưng chiếc khay có hai bát xôi, dịu dàng «...chắc điện của Quỳnh ? ». Tôi gật đầu. Ðưa bức điện cho Hương, tôi thầm nhủ, thế là anh Thạc đâu có chết. Hương nói «... xe lửa chỉ đến Nha Trang. Từ đó lên đây, bắt xe hàng đi cũng mất thêm ba giờ. Chắc phải tối mịt mới tới được ». Tôi chăm chú nhìn Hương. Trên má nàng, đâu có vết nốt ruồi các cụ ngày xưa ví như giọt lệ màu đen nhỏ xuống. Thế thì giọt lệ màu đen không có thật ! Hoặc giả nó chỉ là điều thêu dệt cho Quỳnh khác với Hương. Và muốn Hương thành Quỳnh thì thật dễ, chỉ cần chấm vào má một chấm bút con gái dùng để kẻ chân mày !

Ðể bức điện tín xuống bàn, Hương giục tôi ăn rồi bảo « Hôm qua, đoàn người Pháp có hẹn nhưng lại không lên vào phút chót. Vì thế, khách sạn không cần người thông dịch nên mới để Hương về sớm. Ðoàn đó mai sẽ lên, họ đặt phòng và trả tiền rồi nên thế nào mai Hương cũng bận buổi chiều ». Tôi nhìn xuống đất, bỗng bối rối, thậm chí có chút gì như là sự xấu hổ.

Tôi cố nhớ lại, từ lúc lên vái bàn thờ hai bác cho đến khi nhìn thấy vết nốt ruồi, và sau đo,ù tất cả đã xẩy đến như một giấc mơ. Giấc mơ đó, chẳng cũng là hiện thực, nhưng phát sinh từ một động cơ huyền diệu hơn năm giác quan sao? Tôi ngước mắt nhìn Hương. Cũng một khuôn mặt hình trái soan, chiếc mũi dọc dừa, và đôi môi vênh lên hơi thách thức. So với Quỳnh, đúng là một giọt nước, chỉ khác là thiếu một giọt lệ đen nhỏ bằng ba cái đầu tăm. Nhưng tôi băn khoăn tự hỏi, tại sao tôi cứ lại là người đi tìm thêm một giọt nước mắt ?

Nhìn nắng vàng đậu trên mái ngói màu đỏ tươi của ngôi nhà bên cạnh, lòng tôi chợt trôi hững vào một cõi an bình như khi gặp lại một cái bút chì, một cục gôm, một mảnh ký họa bỏ quên trong gầm bàn, hốc tủ. « A, tí nữa lại quên », tôi nói rồi mở vali, đưa cho Hương tất cả quà cáp tôi mang về. Trừ món quà nhỏ dành cho Hương, tôi bảo «...nhờ Hương sắp đặt quà cho chị Quỳnh, anh Thạc và các cháu. Hình như cháu gái lớn sắp lấy chồng, phải không ? ». Hương cười, đáp «...hôm qua Hương chẳng nói rồi còn gì !».

Bây giờ, thật chẳng còn gì để ngạc nhiên nữa. Quỳnh hôm qua là Hương hôm nay. Còn tôi, ở giây phút này, tôi liệu có thể khác với Vinh mới một ngày trước không ? Cái gạch nối liền quá khứ vào hiện tại đâu có phải cứ dứt là đứt ra đâu. Tôi nắm tay, bàn tay có ngón tay bị cắn đau điếng. Thì ra phải chẩy máu mới biết được mình là ai. Ngẫm nghĩ rồi lẳng lặng lục đáy vali, tôi lôi ra cái áo len Hương đan cho hai mươi năm trước, tay run run đưa cho nàng. Chiếc áo nay đã sờn vai, và hơi chật. Hương lại cười, lùi xa ngắm tôi, nói nhỏ «... Vinh chắc nặng thêm năm bẩy kí chứ ít gì ! ». Tôi cũng cười. Tôi có cảm tưởng đây là lần đầu tôi thực sự cười từ ngày đặt lại chân trên mảnh đất tôi gọi là quê hương của tôi. Hương bảo « ..để Hương móc lại chỗ vai áo bị sờn nhé ».

Trả tôi bức điện, Hương nói « ..chỉ ba ngày nữa, nhà mình tha hồ đông ». Tôi nhận ra giọng nàng có một thoáng ngậm ngùi. Ðọc lại bức điện, tôi quả quyết « Thôi, em đi điện cho chị Quỳnh, bảo đừng vào vội! ». Nói xong, chính tôi , tôi ngạc nhiên. Em là tôi, ngôi thứ nhất, hay là Hương mà tôi buột miệng gọi bằng em. Hương nhỏ nhẹ « Dạ, em sẽ điện, nhưng nói thế nào ? ». Tôi lại quả quyết «... thì mình cứ nói là mình bận. Vả lại, mình đâu còn bao nhiêu thì giờ với nhau...».

Chữ mình bây giờ rõ ràng chỉ Hương và tôi. Ðó là điều khó ai lầm lẫn được. Nhưng tôi vẫn chưa biết Hương hiểu thế nào về cách tôi giải đáp dấu hỏi của hiện tại, tôi, một kẻ từ tương lai đi tìm quá khứ. Tôi chỉ cảm thấy một bàn tay bé nhỏ bíu chặt vào tay tôi, cái bàn tay không có ngón cắn đến chảy máu, và một tiếng thì thào «... sắp hết thì giờ rồi ! ».

Ðiều đó, Hương ơi, tôi biết. Biết như chính sinh mạng tôi vậy.

1259




  Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

      Khi sinh ra Dung, mẹ nàng vì bận buôn bán, giao phó nàng cho người u già trông nom. Người u già này ở nhà Dung đã lâu lắm, đã nuôi và săn sóc tất cả anh chị Dung từ lúc bé. Nhưng, không biết vì có phải thấy Dung ra đời trong sự lãnh đạm, mà u già đem bụng thương yêu Dung chăng. U săn sóc, bế ẵm nàng, và chăm chút nàng quý như con đẻ vậy, tuy Dung lúc bé ốm yếu khó nuôi và lại ghẻ lở bẩn thỉu nữa.

      Cha Dung chẳng làm gì cả. Từ xưa đến nay vẫn thế. Hình như ông ta sinh ra đời là chỉ để ngồi ở nhà cho lúc nào cũng có người và để những ngày giỗ tết trong họ, khăn áo chỉnh tề đi ăn cỗ mà thôi. Không ai thấy ông ta làm một việc gì, mà cũng không ai nghĩ đến sự ông ta phải làm một việc gì.

      Ông lúc nào cũng ngồi rung đùi bên cạnh cái điếu ống mà ông sửa chữa rất kêu, thỉnh thoảng hút một điếu, rồi lại trầm ngâm như đang nghĩ ngợi một sự gì quan trọng. Những lúc ấy u già biết là ông chẳng nghĩ sự gì quan trọng cả, bèn đem Dung đến cho ông bế. Ông giơ hai tay ẵm Dung vào lòng, hôn hít, rồi xốc Dung lên trên đùi, ngoáy bụng cho nó cười, rồi lại trịnh trọng đưa trả u già. Xong, Ông lại ngồi nghĩ ngợi.

      Có lẽ ông nghĩ tình cảnh nhà ông, hồi còn ông cụ đi làm việc quan, rất giàu có và hách dịch suốt một vùng này. Từ khi cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà thành ra sa sút, chỉ còn cái danh không.

      Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

      Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu" cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

      Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

     - Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

      Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

      Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

      Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ta thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:

     - May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

      Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

      Cuộc đời cứ đi như thế trong cái xó chợ cỏn con ấy. Thấm thoát Dung đã mười bốn tuổi, nhưng ai cũng tưởng là hãy còn trẻ con, mà tính tình nàng như đứa trẻ con thật. U già đã có khi phải gắt lên với nàng:

     - Bây giờ cô phải đứng đắn lên một tí chứ. Nhiều tuổi rồi còn gì nữa.

      Dung ngây thơ hỏi:

     - Đứng đắn là thế nào cơ, u?


Đứng đắn là đứng đắn chứ còn thế nào nữa, cô hỏi lẩn thẩn lắm. Cô không có vẻ người lớn một tí nào cả.

     - Ừ, thì tôi không người lớn. Nhưng không người nhớn thì làm sao hở u?

      U già vác quạt đánh, Dung chạy lại ôm lấy, rồi âu yếm ghé tai u già nói khẽ:

     - Tôi có người lớn, cậu mợ cũng không yêu hơn cơ mà.

      Thế là hai u cháu lại lặng yên không nói gì nữa.

      Một hôm mẹ Dung đưa một bà ở trên tỉnh về chơi. Thấy người lạ, nhất là cách ăn mặc thị thành của bà khách. Dung cứ đứng dán mắt lên nhìn. Mà lạ thay, lần này Dung không thấy mẹ quát mắng bảo lui đi như mọi bận có khách khác. Mà bà khách lạ cũng chăm chú nhìn Dung từ đầu đến chân, lại hỏi han Dung nữa.

      Sau hai bà thì thầm với nhau mãi. Mẹ Dung mời bà khách ở lại ăn cơm, rồi thân hành tiễn bà ra ga.

      Bẵng được ít lâu, một hôm mẹ Dung bổ hàng về, gọi Dung lại gần, lấy ra một gói bọc giấy mà bảo:

     - Đây là áo mới của cô đây. Lấy ra mà thay, chứ ai lại ăn mặc rách rưới thế kia bao giờ.

      Dung se sẽ cầm gói giấy mở ra, thấy hoa cả mắt: nào áo nhiễu trắng, áo bom bay hồng, áo lụa màu hoa lý. Lại mấy chiếc quần lụa cạp đỏ, mấy cái áo cánh phin, mấy cái cổ yếm máy và mấy chục thước vải. Dung cất tiếng run run hỏi:

     - Của những ai đấy, mẹ?

     - Không, riêng của con đấy thôi.

      Dung sung sướng mân mê các cúc áo. U già cũng lại gần xuýt xoa khen.

      Từ hôm ấy, mẹ Dung chiều chuộng Dung lắm, không ghét bỏ như trước. Bà bắt Dung ăn mặc chỉnh tề, tập đi giầy nhưng vắng mặt mẹ, Dung lại vất giày đi chơi, vì nàng không quen đi bắt vấn tóc, và nhuộm răng.

      Cuối tháng tám năm ấy, bà khách lại xuống chơi ở lại ăn cơm. Mẹ Dung gọi Dung vào buồng, đóng cửa rồi thì thào với con đến hơn một tiếng đồng hồ.

      Sau cửa mở, thấy Dung bước ra mắt đỏ hoe như mới khóc, và bẽn lẽn không dám trông bà khách. Nhưng u già dỗ dành ít lâu, Dung lại vui vẻ và cười đùa như cũ. Hễ trẻ láng giềng có chế nhạo, Dung chỉ mỉm cười.

      Thế là Dung đi lấy chồng.

      Nàng đi lấy chồng cũng bỡ ngỡ và lạ lùng như người nhà quê lên tỉnh. Dung coi đi lấy chồng như một dịp đi chơi xa, một dịp rời bỏ được cái gia đình lạnh lẽo và cái xóm chợ quen mắt quá của nàng. Đi lấy chồng đối với nàng là hưởng một sự mới.



Vì thế, khi bước chân lên ô tô về nhà chồng, Dung không buồn bã khóc lóc gì cả. Nàng còn chú ý đến những sự lạ mắt lạ tai của nhà giai, không nghe thấy những lời chúc hơi mát mẻ và ganh tị của hai chị và em bé nàng nữa.

      Về đến nhà chồng, Dung mới biết chồng là một anh học trò lớp nhì, vừa lẫn thẩn vừa ngu đần. Nàng đã bé mà chồng nàng lại còn bé choắt hơn. Nhưng bà mẹ chồng với các em chồng nàng thì to lớn ác nghiệt lắm.

      Qua ngày nhị hỉ, Dung đã tháo bỏ đôi vòng trả mẹ chồng, ăn mặc nâu sồng như khi còn ở nhà, rồi theo các em chồng ra đồng làm ruộng. Nhà chồng nàng giàu, nhưng bà mẹ chồng rất keo kiệt, không chịu nuôi người làm mà bắt con dâu làm.

      Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

      Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

      Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

      Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

      Một hôm tình cờ cả nhà đi vắng, Dung vội ăn cắp mấy đồng bạc trinh lẻn ra ga lấy vé tàu về quê. Đến nơi, mẹ nàng ngạc nhiên hỏi:

     - Kìa, con về bao giờ thế? Đi có một mình thôi à?

      Dung sợ hãi không dám nói rằng trốn về, phải tìm cớ nói dối. Nhưng đến chiều tối, nàng lo sợ quá, biết rằng thế nào ngày mai mẹ chồng nàng cũng xuống tìm. Nàng đánh bạo kể hết tình đầu cho cha mẹ nghe, những nỗi hành hạ nàng phải chịu, và xin cho phép nàng ở lại nhà.

      Cha nàng hút một điếu thuốc trong cái ống điếu khảm bạc, rồi trầm ngâm như nghĩ ngợi. Còn mẹ nàng thì đùng đùng nổi giận mắng lấy mắng để:

     - Lấy chồng mà còn đòi ở nhà. Sao cô ngu thế. Cô phải biết cô làm ăn thế đã thấm vào đâu mà phải kể. Ngày trước tôi về nhà này còn khó nhọc bằng mười chứ chả được như cô bây giờ đâu, cô ạ.

      Sớm mai, bà mẹ chồng Dung xuống. Vừa thấy thông gia, bà đã nói mát:

     - Nhà tôi không có phúc nuôi nổi dâu ấy. Thôi thì con bà lại xin trả bà chứ không dám giữ.

      Mẹ Dung cãi lại:

     - Ô hay, sao bà ăn nói lạ. Bây giờ nó đã là dâu con bà, tôi không biết đến. Mặc bà muốn xử thế nào thì xử. Chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi.



 Bà nọ nhường bà kia, rút cục Dung được lệnh của mẹ phải sửa soạn để đi với mẹ chồng.

      Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hy vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

      Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy giòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi ước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

      Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     - Tỉnh rồi, tỉnh rồi, không lo sợ gì nữa. Bây giờ chỉ đắp chăn cho ấm rồi sắc nước gừng đặc cho uống là khỏi.

      Dung dần dần nhớ lại. Khi nàng mở mắt nhìn, thấy mình nằm trong buồng, người u già cầm cây đèn con đứng đầu giường nhìn nàng mỉm cười một cách buồn rầu:

     - Cô đã tỉnh hẳn chưa?

      Dung gật:

     - Tỉnh rồi.

      Một lát, nàng lại hỏi:

     - Tôi làm sao thế nhỉ...Bà cả đâu u? Bà ấy về chưa?

      U già để tay lên trán Dung, không trả lời câu hỏi:

     - Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.

      Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

      Dung buồn bã trả lời:

     - Con xin về.

      Khi theo bà ra ga, Dung thấy người hai bên đường nhìn nàng bàn tán thì thào. Nàng biết người ta tò mò chú ýđến nàng.

      Trông thấy giòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.

      Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo. Khi bà cả lần ruột tương gọi nàng lại đưa tiền lấy vé, Dung phải vội quay mặt đi để giấu mấy giọt nước mắt.



261




Một độc giả mặt hầm hầm bước vào toà soạn của tờ nhật báo và nói:
- Ký giả nào viết bài này đây? Tôi muốn nói chuyện với hắn một phút!
- Phiền ông đợi một lát. Tác giả bài báo đó đang băng bó cho một độc giả sau khi ông này cũng muốn "nói chuyện một phút" với anh ta.
2119





Nhà hắn hoa sứ rụng
Rắc thảm mảnh sân vuông
Hắn thản nhiên vô ý
Giẫm quanh khi hắn buồn.

Một chiều trèo cây mận
Mang theo vở học bài
Hắn ê a ngồi "tụng"
Rồi ... thăng một giấc dài ...

Ê ! Con nhỏ kẹp nơ !
(Hắn giật mình vờ quát)
Trộm hoa sứ phải không ?
Đây không cho, chỉ bán !

Bóng nơ xanh vội tan
Trên nền hoa trắng rụng
Và mỗi khi chiều sang
Hắn lại chờ ... "tên trộm".

Hắn chờ bao nhiêu năm
Người kể không biết nữa
Nhưng hắn rất nhẹ nhàng
Khi bước trên sân đó ...808





Dĩ nhiên có nhiều lối rẽ và vô số lý do xác đáng để có thể đi về phía ấy. Người ta bảo đấy là bãi biển tình yêu, chốn trú ngụ tuyệt vời cho những trái tim nổi loạn. Biển nhiều sóng đến thế. Biển thì không cụ thể mà sóng cứ cồn cào mong lấy bớt đi rêu phong muôn đời của vách núi. Có thể hàng triệu, triệu đôi lứa đã đến đây và găm kỷ niệm lại trên những tảng đá cuội cười chen nhau nằm lô xô trên bãi, trong những hang hốc bí ẩn mọc đầy loài muống hoang.

Sự gặp gỡ và bén nhau thật nhanh, hình như đã nằm ngoài khả năng dự cảm. Cứ như thể sinh ra đã là nó. Nhưng em và tôi lại là chuyện khác. Tình yêu lại là chuyện không thể nói giống nhau, như tôi, em và những góc trời thiêng liêng, không thể tỏ bày. Thế mà em cứ đến, cứ lẽo đẽo theo tôi tin và khẳng định mọi điều đều có thể.

Chuyện gì sẽ xẩy ra ? Chiều phóng túng buông mình trên cỏ. Phía cuối chân trời rập rềnh những ráng đỏ. Em và tôi trong hoàng hôn. “Cô ấy bỏ đi rồi, em quyết định ở lại”. Tôi ngẩn ngơ. “Em đi làm gì vậy”. Em giấu mặt vào hai bàn tay: “Chẳng biết nữa”, “vậy sao rồi?” “Cô ấy nói không trở lại.” “Chạy theo đi, giữ cô ấy rồi nói lời xin lỗi khi chưa thật muộn.” “Ðể làm gì?” “Em yêu cơ mà.” Mắt em mờ khói. “Ðã yêu”. Tôi bắt đầu yếu mềm, ấy là khi trào lên chút thương cảm: “Phải làm gì đi chứ?” “Vô ích.” “Không thể như thế.” Em thảng thốt: “Chúng em yêu nhau gần ba năm rồi.” Tôi gật đầu “Cô ấy xinh và ngoan.” “Thế mà chẳng bao giờ gần nổi nhau, giữa hai đứa khoảng cách cứ lùi xa không còn cách cứu chữa. Có bao giờ chị tự hỏi thói quen làm người ta lầm tưởng tình yêu ?” Tôi ngẩn ngơ thương cái dáng nhỏ liêu xiêu của em trên đá: “Chạy theo đi, giữ tình yêu của mình. Ðừng đánh mất.” Em xa xăm: “Ðể làm gì?” “Ðớn đau lắm.” Em ngạc nhiên nhìn tôi rồi đáp cộc lốc: “Còn em. Sự trống rỗng khi ở bên nhau thật đáng sợ. Em không cần, chúng em đều biết tự nó phải thế. Phá vỡ rồi làm lại còn hơn sai lầm cả đời.” Tôi van vĩ: “Thế còn cô bé ?” Em bình thản: “Sẽ hiểu.” Tôi thấy mình xót xa: “Em quá quắt lắm”.Mắt em nhìn lên rực nắng. Em bảo: “Bây giờ thanh thản”, Còn gió thì thốc vào ngực tôi buốt nhói …

Thế mà cái đuôi của tôi cứ mọc dài ra, là em cố tình làm tôi khó chịu. Ðêm cứ ngắn lại thăm thẳm. Em không chịu rời tôi. Làm sao có thể cắt nghĩa cho em hiểu tôi đã có gia đình, có người chồng hết mực chăm lo, có em bé đẹp như ao ước. Em lẳng nhẳng theo tôi như thưở tôi mười lăm, em mười sáu. Sắp bực mình thì cái mặt non choẹt ngây ngô của em lại nghệt ra. Rồi thôi. Tôi chẳng đủ sức đễ gieo mình trên con đường lối ra phía biển. Em như túi xách lỉnh kỉnh tôi muốn ném ở nhà để thơi thả thì lại phải mang theo. Và quan trọng là thời tiết biển những ngày này thật kinh. Biển như vũng nước ngòm đen lầy lụa. Quà biển đổ bờ nhiều quá thế, mặt ngư dân sáng trưng còn không gian đông quánh mùi vị tanh tưởi. Không nắng, không gió, bức bối và ngột ngạt.

Một đêm trở gió. Em đến và quây quả: “Ði biển”. Tôi hỏi: “Ðể làm gì?” Em nhỏn nhoẻn cười: “Chị thừa biết. Chơi thôi ! Biển đẹp lắm. Em chờ mãi mới có một hôm biển đẹp và yên tĩnh thế này.” Em không thèm quan tâm tới tôi có đồng ý không. Cứ như thế tất cả mọi điều đều có lý. Người ta có quyền đi mà không ngại suy nghĩ bởi ngoài kia có gì đấy rất đẹp. Cái đẹp luôn tự cho phép mình bào chữa mọi điều, và tất nhiên sự đi chơi của em và tôi là hồn nhiên. Gió thổi, ngực em phô phag đón gió rồi em nheo mắt cười thoảng nét kiêu hãnh. Tôi ngột ngạt: “Ngại quá !” “Không ngại.” “Ấy là mệt” . “Chẳng mệt”. “Em đi đi”. “Cả chị nữa.” “Có nghĩa gì?”. “Có”. “Chị không thích”. “Chị có thích”. “Chị nói dối thế làm gì ?” “Thôi mà em, đừng làm chị mệt. Chị có trẻ con nữa đâu với em thế. Chị bị đau tim đây này, đừng đi nữa”, “Chị van nài như thế để làm gì, chị đang đi đấy thôi. Rồi chị sẽ hết đau, hết mệt”. “Không”. “Có”. Em và tôi giằng co, gió trở mình làm run lên đám lá hờ trên cỏ. Tôi đưa chân mình thả bước dù cố không nghĩ tới, mà lối rẽ vẫn hiện ra. Gió thổi tung và ném lên cao những chiếc lá khô rồi lại ào ạt thả xuống vô số chiếc lá úa. Tóc trôi bung lên xao xác. “Lạnh thật.” “Không lạnh, đấy là chị rùng mình.” “Ði đâu thế này?”. “Như chị vẫn thường thích …”. Tôi lặp lại như cái máy: “Thường thích”. “Ừ, em ngắm chị chán vạn trên con đưòng này rồi. Chị có biết em nghĩ gì về sự đi được nửa chừng rồi quay về của chị không?” Tôi biện bạch: “Chị sợ”. Em lắc đầu. “Không”. “Thì gì nào?” “Chị không dám đấy thôi, người ta có thể đi một mình trên con đường, còn chị thì không. Tại sao không có ai đó đưa chị đi, không một ai ở bên chị?” Tôi cười: “À mọi người bận hết.” “Thế chị ốm à?”. “Ừ, chị hơi bị nhức tim”. “Tim chị không đau, em biết. Chị tự huyễn tưởng thế thôi. Ðể em chữa cho chị” “Bằng cách nào?”. “Bí mật. Nhưng chị phải tôn trọng em cơ”. “Như gì nào”. “Như một người đàn ông thực thụ, môt người đàn ông cao cả”. Tôi rục mặt vào cánh tay cười: “Ừ, thì cao cả. Nhưng cái trò này vớ vẩn không kém”. “Em ghét chị coi.” “Thì tốt”. “Sao?”. “Chẳng sao”. Chúng tôi nhón chân bước. Ðêm trải dài vô tận và con đường này hình như không còn chỗ dừng chân ? Những chiếc lá trở mình khẽ khàng dù muốn dù không. Em loay xoay vuốt tóc tôi. Tim tôi thắt lại,“Ðừng!” “Tóc chị đẹp quá”. “Không phải dành cho em đâu cậu bé ạ”. “Mặc kệ chị”. “Thằng ôn, mày làm sao rồi, đừng nghịch. Mày như con nít đáng mặt út tao.” “Không phải, em là người đàn ông cao cả. Em đang ở bên chị đây này, chị thì gì nào? Giống cô bé lọ lem, chị mong manh như thế kia, em cần phải giữ gìn”. “Thôi đi mày không sao cả. Cãi chị ngang ngang. Bực cả mình tao về đây.” “Ðừng ! Chị ngồi lại đi, em không thèm đụng vào tóc chị nữa: Tóc chị không mềm và thơm em biết rồi.” “Thế là tốt đấy. Ngoan đi nhé, kể chuyện vui vui của em xem nào”. “Chị thì hiểu gì mà kể. Mỗi cái đuôi tóc cũng giữ. Chị chẳng đáng
yêu, chị giống như vạn người đàn bà nhạt nhòa khác. Như người yêu của em, những người không có trái tim hoặc giả tim họ bị hư, và suốt đời họ không biết yêu đương, thực hiện bổn phận làm người như một cái máy. Chị thuộc loại người đó.”
Tim tôi thắt lại, nhịp đập yếu đi lữ lã. Người ta khuyên tôi đến đây để dưỡng bệnh. Anh bỏ ra một số tiền bằng cả năm dành dụm cho tôi mang đi. Tại sao anh không nhắc tôi. “Em đừng lang thang đi với ai đó, đừng xúc động”. Anh vốn thừa biết tôi đa mang. Cứ như thế tôi là thiên thần, và với món tiền này đến đây tôi sẽ mạnh khỏe. Anh có lường hết chuyện gì sẽ xẩy ra với tôi không ? Anh tốt với tôi quá, đơn giản quá mà con tim yếu đuối này lại chở nặng những vớ vẩn không đâu. Anh có bao giờ làm tôi phiền lòng chút nhỏ. Anh yêu tôi và tin tôi đầy ắp hạnh phúc, dù rằng tôi chẳng dám chắc hạnh phúc là cái gì đấy có thật và hiện hưũ bên mình. Chẳng lẽ với anh, không một lý do gì để tôi làm anh buồn hay cảm thấy bị thương tổn, phải không trái tim bé nhỏ. Có ranh giới giữa tôi, anh và một ai nào khác không ? Trái tim thì luôn thức đập mà những khoảng khắc sâu thẳm hẳn không dễ gì tới được. Em lại xoay sờ vào tóc tôi. Những ngón tay em gầy trong tóc tôi lơi lả. Thôi thì để yên. Không có gì là không có lý do. Tôi sợ tim mình lại không bình thường. Cơn đau có thể đến bất thần và quất ngã tôi xuống. “Tóc chị mềm và thơm lắm, sao chị trẻ con như vậy?” Em dụ dỗ tôi ? Hay em thấy tôi mong manh quá ? Tôi cười nhẹ: “Thật trẻ con.” “Thì người lớn”. “Không người lớn”. “Thì sao nào?”. “Chẳng sao cả.” Em và tôi cười phá lên. Phía xa kia là biển. Có nhiều lối rẽ. Ðường cứ thế bày sẵn ra mời gọi người đi. Em và tôi vòng vo mãi nhằm con đường ngập ngụa lá. Mùa thu như đang trú ngụ khắp mọi chỗ. Mưa sắp giăng nhạt nhòa ở phía xa. Tôi – Em – và những con đường cái cây đến mùa trở gió.

“Em có nghe không? Trong vô số đó người ta chỉ có thể chọn cho mình” …Em lại đụng vào vai tôi khẽ thôi nhưng sao tôi lại thấy da thịt mình tê dại. Hình như ở phía em ấm nóng hơn tôi tưởng. “Ðây…một con đường duy nhất mà thôi, người ta không thể có một lúc hai cái bến trú. Sự được là sự mất, sự hợp là sự chia…”. Tay em thít vào vai tôi mềm và khỏe. Tôi bơi trong trạng thái không trọng lượng, nếu em đặt tay lên ngực tôi sẽ thấy trái tim tôi đang đập dại điên, nếu em biết…Tôi khéo léo tuột ra khỏi tầm tay em giả bộ cười tinh quái. “Em sao thế, không muốn nghe chuyện nữa à !”. Em nó trong mơ màng: “Thôi ! Chị, lý dự quanh co để làm gì nào, chị đang ở bên đấy thôi, thế là đủ. Chị cứ vui đi nếu chị đang vui, đừng xưng tội để rồi phạm tội, chán lắm.” Tôi co ro dò dẫm trên những vệt cát thẫm ai đó vừa đi qua rồi ngẫm ngợi. “Em nói gì thế”. “Nói trái tim chị đấy”. “Chị sợ biển lắm”. “Biển về đêm thần bí như câu chuyện cổ tích: Chị là câu chuyện cổ tích em muốn đọc”. “Thằng điên”. “Phải vậy thôi, trẻ em thường mê chuyện cổ tích”. Vẫn biết điều đó sẽ đến sẽ xảy ra nhưng sao lại xảy ra nhanh thế này. Em sắp ôm lấy tôi rồi và tôi sắp buông mình vào vầng ngực thanh thản kia chăng ? Khoảng cách giữa em và tôi ngắn lắm, chấp chới lắm đủ để tôi nghiêng ngả. Tôi đứng yên bàng hoàng chờ đợi phút khủng khiếp ấy rồi sau đó sẽ tan ra bay vào trời xanh. Có thể gần lắm …môi em sẽ lướt trên môi tôi đờ đẫn. “Em chẳng biết gì đâu. Chị giống như hạt sương ban mai bỏ quên trên cỏ. Cho em được nâng niu một chút, chị nhé …”. Ngực tôi mệt lữ. Tôi sợ nhìn vào mặt em, sáng trong đến không nỡ - tôi sợ nhìn vào môi em, nồng nàn quá đỗi mà tôi lại mệt lã yếu mềm. “Chị ơi”. Mắt em gọi. Cúc áo ngực tôi sắp bị tung. Em ngước nhìn ngây ngô. Mặt em dài dại. “Em hôn chị nhé, một thôi, ở môi, ở mắt …thôi thì ở tóc”. Tôi cúi mặt lặng im. Thôi thì đừng tự dày vò mình. Một nụ hôn. Có thể con người ta luôn không có cái mình cần, có ai đó may mắn hơn được nhìn thấy một lần rồi tuột mất. Có phải thế mà suốt đời ta dằn vặt, đa mang, đau khổ, và loay hoay kiếm tìm…

Môi em miết trên bờ vai tôi run và khát. Tôi sợ mình sẽ đổi xuống cát, sẽ vỡ òa như một trái chín nẫu. Tôi xù long: “Em xấu quá. Tôi hơn tuổi em, em phải biết lịch sự chứ !” . Em ngước nhìn: “Em yêu chị”. “Mày điên rồi”. “Chị cũng điên rồi.” Tôi cuống quýt. “Chị không yêu mày, đồ con nít”. “Chị có yêu”. “Ðừng nói lung tung nào”. “Chị hèn thế”. “Thôi chị về đây”. “Vô nghĩa. Ra đến nơi rồi, sao chị không ngồi ở nhà từ đầu, đã đi rồi thì quay lại làm gì”. Tôi đáp hụt hơi: “Chị mệt”. “Ðừng trốn chạy chính mình. Thôi đừng nói gì nữa, yên đi để em yêu chị nhé”.

Tôi thấy quần áo mình rách bươm bay tả tơi trong gió. Em gần tôi quá thể mà sao tôi vươn mãi vẫn không chạm tới. Ngực em phô phang tóc em bay ngược chiều gió để lộ vầng trán cao và rộng. Tôi nhũn nhẽo trên cát, chân tay bần bật, và cát, gió bay quật vào mặt tôi mờ mịt. Tôi chống chọi, vật vã, cuống quýt. Em vẫn chập chờn ở xa tôi …

Rồi em đòi tôi dừng lại và ngồi xuống mấy mõm đá lô nhô trên bãi. Em không muốn đi nữa. Em rũ xuống như cái cây vừa chống chọi qua cơn bão. Tôi nao lòng. Biển đêm lập lòe ánh sáng xanh xao ma quái ở xa tít. Gió cứ thổi như thế quần đảo suốt đêm hòng làm bớt đi sự hoang vu yên lặng vốn có của khoảnh khắc giao ngày.

Mắt em hao gầy đi và đêm cứ xanh xao lên mãi. Thời gian vùn vụt trôi. Trái tim tôi đập buốt nhói. Là thằng đàn ông trẻ, bởi thế em dễ mệt mỏi và đổ vỡ. Cầu xin em đừng đụng vào tôi, bởi thêm chút nữa, tất cả sẽ vỡ tung. Nhưng tôi biết mình hoài công.

Những cái đèn như mắt biển dập dềnh ở nơi xa khơi. Biển rộn rực lên như thể nó vốn có những khoảng khắc yên tĩnh. Loang loáng những đôi vai trần nở nang vạm vỡ đang dang tay kéo lưới. Những đôi chân chắc đậm chạy đi vớt cá bỏ lại trên cát những vệt long lanh nước. Tôi thở sâu vào ngực. “Cầu mong cho cái lưới đầy cá”. Em thở dài. “Ước gì có thể phóng thích hết rồi thả chúng về với đại dương”. Tiếng gọi nhau I ới vang lên. Phụ nữ, đàn ông, con trai, con gái và đám trẻ nít liu chiu dậy sớm đổ ùa ra biển cắp những rổ con con rập rình ở hai bên mẻ lưới đang kéo. Một gia đình ngư dân đang chờ thành quả đầu tiên của một ngày đang tới. Tiếng nói, cười lao xao, nghe như tiếng cá quẫy …" Chị ngồi đây nhé, em ra kia xem có nhiều cá không ?”

Ðêm loãng dần …Có mỗt con cá nhỏ lạc vào bước chân tôi. Thân nó mỏng như một chiếc lá lấp loáng bạc. Tôi cúi xuống. Con cá thiếp ngủ, cứ như thể nó là sứ giả của đại dương mang đến sự bình yên của người. Tôi thầm thì, nước mắt lăn trên môi mặn đau. “Hãy đi đi, về với đại dương của mi”.

Mặt trời rạng lên ở phía đằng đông. Cái doi cát này không dài ra vô định như tôi nghĩ. Con đường này ngắn lắm - và tôi – em - một đêm trên như không thể gặp lại trong đời. Em có trở lại ? Hay chẳng bao giờ ? Em sẽ cuống cuồng tìm tôi hay em bình thản nhìn tôi xa hút ?

2060




Chàng sinh viên "Từ điển sống" từ thành phố về quê ăn Tết, đến thăm nàng "Chân quê". Chàng, nàng xem chừng đã "Phải lòng" nhau rồi, nhưng chưa có dịp tỏ tình bằng nụ hôn. Khi nàng tiễn chàng ra ngõ thì đêm đã khuya, hai người cứ đứng bên bờ dâm bụt thi nhau bứt lá vò nhàu. Bỗng chàng đánh bạo, nói nhỏ:

Anh yêu em, cho anh hôn em một cái!

Nàng cũng thích được chàng hôn lắm, nhưng xấu hổ, liền hỏi chàng:

Nhưng anh phải nói cho em biết nụ hôn có từ bao giờ đã?

Đáng lẽ chỉ cần nói "Từ khi anh yêu em" hay "Từ khi anh nhìn thấy em", thì chàng "Từ điển sống" bỗng khoái chí thao thao bất tuyệt về lịch sử nụ hôn (chắc là đọc được trên sách báo nào đấy):

Ồ, nguồn gốc nụ hôn có từ thời người ăn thịt người. Thời đó, nếu người ta yêu nhau thì người ta không ăn thịt nhau, mà hôn nhau. Nhưng hôn phải cắn nhẹ một chút, cho nên người ta gọi nụ hôn là "Cái cắn tình yêu".

Cô gái sợ run bắn:

Eo ơi! Cắn thì đau chết!

Em sợ thì em tìm đến các bộ lạc Mông Cổ hoặc Tibê mà sống. Ở đó người ta hôn nhau bằng mũi, bắt chước thói quen đánh hơi của động vật, mà ta thì gọi là ngửi nhau. Khi yêu nhau, họ không nói "Hôn tôi đi" mà nói "Đánh hơi tôi đi!".

Buồn cười vậy hả anh?

Chứ sao.

"Từ điển sống" hăng hái hơn.

Có một giả thuyết khác lại cho rằng nguồn gốc của nụ hôn là dấu vết của thói quen liếm đồng loại để lấy chất muối do sự bài tiết mồ hôi, cần thiết cho cơ thể.

Sao bẩn thế?

Ồ... đó là xa xưa. Rồi con người văn minh dần lên, cách hôn cũng được quy định theo tục lệ của từng cộng đồng. Thời cổ đại, người Do Thái, Hy Lạp và La Mã đã coi nụ hôn là cử chỉ thân thiện, hữu nghị. Khi gặp nhau, họ hôn lên hai má, giống như cái bắt tay của con người hiện đại. Thời cổ đại ấy, ở Hy Lạp người dân phải hôn tay, hôn ngực và hôn đầu gối các pháp quan; ở Châu Phi, người dân lại hôn lên chỗ đất mà vị thủ lãnh của họ vừa bước qua. Người Anh ôm hôn thay chào hỏi, nhưng đến thế kỷ 17 do nạn dịch hạch, nên đã thay thế bằng cách ngả mũ chào. Người Caltes có lệ hôn chân thầy mo. Các tín đồ công giáo thì hôn chân Giáo hoàng.

Hôn như thế thì chán nhỉ.

Nàng thở dài.

Chàng chợt nhớ ra điều gì đó; cao giọng giảng giải tiếp:

Sao lại chán? Mỗi nụ hôn đều có nội dung của nó đấy. Người ta còn quy định về các bộ phận được hôn trên cơ thể, ứng với các cấp độ khác nhau của sự tôn kính, thân mật, yêu thương hay suồng sã. Bởi vì theo các nhà y học thì khi hôn, cả ba cơ quan xúc giác, khứu giác và vị giác đều bị kích thích. Xúc giác bị kích thích mạnh nhất, nó tạo nên khoái cảm ở mỗi người. Cho nên Bryalt coi sự "Chạm môi" là biểu hiện xác thịt của tình yêu, và ông ta cho rằng không hề có khái niệm "Nụ hôn trong trắng". Còn người Ý thì lại có câu tục ngữ: "Một cô gái bị hôn là đã bị chinh phục một nửa".

Chàng đọc nguyên văn câu tục ngữ bằng tiếng ngoại quốc - "Donna baciata me

a chiavata".

Đến đây thì nàng xúc động thật sự. Nàng cảm thấy dâng lên một niềm hưng phấn lạ lùng, và nếu chàng chủ động ôm hôn nàng, thì nàng sẽ ôm chặt chàng đến nỗi sẽ không bao giờ buông chàng ra khỏi tay mình. Nhưng chàng không hiểu điều đó. "Từ điển sống" với sự hiểu biết tuyệt diệu của mình và chàng say sưa diễn thuyết:

Em biết không, từ trước đến nay, ai cũng cho nụ hôn là ngọt ngào như mật ong. Đó chẳng qua là một sự bịa đặt mà thôi...

Sao vậy anh?

Nàng ngạc nhiên hỏi.

Ồ... Các nhà khoa học đã phát hiện ra điều ấy đấy. Người ta tính trung bình mỗi chiếc hôn có đến khoảng 2 gram nước bọt, 0, 761 gram mỡ, 0, 7 gram đạm, 0, 45 gram muối, chứ chẳng hề có một gram đường nào cả. Nhưng vi trùng thì nhiều vô kể. Mỗi chiếc hôn có tới 22 nghìn vi trùng các loại. Nếu một chiếc hôn kéo dài hàng chục phút thì phải có đến cả tỉ con vi trùng, phải không em?

Chàng dừng lại đợi chờ một lời thán phục của người yêu. Nhưng nàng "Chân quê" nghe nói chiếc hôn có hàng tỉ con vi trùng thì hoảng sợ quá, nàng đã chạy biến mất, để lại mình chàng "Từ điển sống" đứng ngây như Từ Hải.


2789




Các thầy đồ ngồi kháo chuyện các ông trạng ngày xưa giải được câu đố của người Tàu và khoác lác rằng giá mình ở thời ấy, mình cũng giải được.

Một anh chàng ngồi bên cạnh, nghe ngứa tai, mới hỏi ghé vào:

Các thầy hay chữ, tôi xin đố các thầy "Hai nghê hai bên, khuyển trên hỏa dưới" là chữ gì?

Các thầy đồ nhìn nhau. Anh kia bèn nói:

Thưa, là chữ "Thui chó"...


2838





1. Đầu tiên Chúa tạo ra Bit và Byte, và từ những thứ đó ông tạo ra Word.

2. Rồi Chúa lại chia ra 0 và 1, và ông thấy như vậy thật tuyệt vời.

3. Chúa bảo: "Hãy để dữ liệu đến chỗ mà nó cần đến", và Chúa tạo ra đĩa mềm, đĩa cứng, CD.

4. Chúa lại nói: "Hãy để máy tính như nó cần phải thế, phải có chỗ cho đĩa mềm, đĩa cứng và CD". Thế là Chúa tạo ra máy vi tính và gọi chúng là phần cứng.

5. Lúc này vẫn chưa có phần mềm trên thế giới này, thế là Chúa lại tạo ra các phần mềm, lớn có nhỏ có, và bảo chúng: "Các con hãy tự nhân mình ra để chiếm hết các bộ nhớ".

6. Và rồi Chúa lại nói: "Ta sẽ tạo ra các Lập trình viên, anh ta sẽ tạo ra chương trình mới và cai quản tất cả máy tính, chương trình, dữ liệu trên toàn thế giới".

7. Thế là Chúa tạo ra Lập trình viên và đưa đến Trung Tâm Dữ Liệu, cho anh ta xem cây thư mục, cho phép sử dụng tất cả các thư mục, chỉ trừ Windows.

8. Chúa lại nghĩ rằng, nếu để Lập trình viên một mình như vậy thì thật không tốt chút nào, thế là Chúa lấy xương sườn của Lập trình viên và tạo ra một sinh vật sẽ tôn kính Lập trình viên, yêu thích những gì Lập trình viên làm và thán phục Lập trình viên. Chúa gọi sinh vật đó là Người dùng.

9. Chúa để tất cả bọn họ dưới cây DOS, và điều đó thật là tốt đẹp.

10. Nhưng Bill lại thông minh hơn tất cả các sinh vật mà Chúa tạo ra, anh ta hỏi Người dùng: "Thế Chúa có cấm anh dùng chương trình nào không?"

11. Người dùng trả lời: "Chúa cho phép chúng tôi chạy tất cả chương trình trên từng bit dữ liệu, nhưng không được sử dụng Windows hoặc chúng tôi sẽ chết".

12. Bill chất vấn: "Tại sao anh lại có thể nói như vậy về một thứ mà anh chưa hề sử dụng? Ngay khoảnh khắc mà anh dùng Windows, anh sẽ ngang bằng với Chúa, anh có thể tạo ra bất cứ thứ gì chỉ bằng một cú click chuột đơn giản".

13. Người dùng nhận ra rằng hoa quả của cây Windows ngon hơn và dễ "xài" hơn. Và anh ta thấy tri thức thật vô dụng vì Windows đã thay thế nó.

14. Người dùng nạp Windows lên máy của mình và thấy rằng Windows thật quá tuyệt vời, anh ta nói điều đó với Lập trình viên.

15. Ngay lập tức, Lập trình viên đi tìm những Driver mới. Chúa liền hỏi: "Con tìm gì vậy?". Lập trình viên trả lời: "Con đang đi tìm Driver mới vì ở trong DOS không có những thứ đó". "Ai bảo với con rằng con cần Driver mới? Con có sử dụng Windows không đấy?" Chúa hỏi tiếp. Lập trình viên liền trả lời: "Chính Bill đã bảo chúng con làm việc đó".

16. Chúa bảo Bill: "Vì những gì con đã làm, con phải bị trừng phạt, con sẽ bị tất cả các sinh vật ghét bỏ. Suốt đời con sẽ phải bán Windows".

17. Chúa bảo người dùng: "Và bởi vì những gì con làm, Windows sẽ luôn làm con thất vọng, nó sẽ ăn hết các tài nguyên của con, con sẽ phải dùng các chương trình có lỗi và luôn phải cần đến những Lập trình viên".

18. Chúa lại bảo Lập trình viên: "Bởi vì con đã nghe lời Người dùng, con sẽ luôn luôn tạo ra các chương trình có lỗi, con sẽ phải sửa chúng, sửa chúng cho đến hết cuộc đời".

19. Nói rồi Chúa ném mọi sinh vật ra khỏi Trung Tâm Dữ Liệu, người đóng cửa và bảo mật bằng một cái password:

20. GENERAL PROTECTION FAULT.2489


Powered by Blogger.