Tí chạy hớt hải chạy xuống phòng y tế:

- Cô ơi! Cô tiêm cho cháu 5 mũi giảm đau loại nặng đô nhất ạ!

- Cháu bị đau ở đâu? Có nặng không mà tiêm nhiều thế?

- Dạ cháu không bị gì hết, nhưng tí nữa cháu phải cầm sổ liên lạc về gặp bố ạ!



o O o


Cô giáo giảng dạy cho học sinh về tổ tiên loài người là Ađam và Eva, nhưng cậu bé Pitơ bỗng đứng dậy:

- Thưa cô, không phải ạ, bố em bảo tổ tiên loài người là loài khỉ.

Cô giáo trả lời:

- Cũng có thể Pitơ ạ, nhưng lúc này chúng ta không nói gì về gia đình em.
1176




Trên chuyến tàu từ Châu Âu sang Mỹ, mọi người đều mệt mỏi vì bị sóng biển nhồi lắc. Riêng có một người gương mặt thật bình thản ngồi hút thuốc, nghe nhạc. Mọi người thêm thán phục khi biết được đó chính là Albert Einstein (1879 - 1955). Một người mạnh dạn hỏi:

- Thưa ngài, trong thuyết tương đối, nhiều và ít được hiểu như thế nào ạ?

- Ồ, có gì đâu. Đơn giản thế này nhé: mấy trăm cọng tóc trên đầu là ít. Nhưng trong một chén nước uống mà chỉ có vài ba cái tóc cũng là nhiều.2474










Thời " choai choai" theo học trường Chu Văn An, chú Năm vốn là tay du côn ngoại hạng, thường hay nổi máu anh hùng bênh vực kẻ yếu thế cô đơn. Sự kiện đó đã dung rủi chú Năm kết giao với hai thằng bạn tính tình khắc nhau như nước với lửa. Chú che chở cho Hoàng, người bạn hiền lành chăm chỉ hạt bột, khỏi bị bạn bè bắt nạt. Lần khác, chú can thiệp cho Thịnh " ma lanh" thoát khỏi trận " bề hội đồng" của đám bạn toan trừng trị trò lếu láo gian manh của hắn. Lớn lên mỗi người mỗi ngả, nhưng liên hệ bạn bè không vì thế mà phai lạt. Chú Năm vào quân đội. Hoàng chọn ngành hành chánh và tiến thân rất nhanh trên quan trường. Chỉ trong vòng sáu năm cần mẫn, anh đã được chọn làm Phụ tá đặc biệt cho vị Tổng Trưởng rồi. Thịnh lỡ dở học hành, nhưng hắn vốn láu lĩnh nên chạy được ngay giấy miễn dịch vì lý do sức khỏe, rồi ngất ngưỡng ở Sài Gòn, cà phê thuốc lá lai rai tại góc đường Lê Thánh Tôn và Nguyễn Phi để sống nghề " cuộc chê" xe và chạy " áp phe" . Áp phe linh tinh nhiều loại, có thể là chuyện tẩu tán một lô hàng ăn cắp, trung gian hối lộ xin môn bài, chạy chọt một chân lính kiểng, đấm mõm hội đồng y khoa hoãn dịch , tựu trung loại nào cũng có hơi hám bất hợp pháp và lường gạt, và do đó, nếp sống của hắn trồi sụt bất thường, " áp phe vô" thì phong lưu tiêu xài, còn " áp phe bể" , đôi khi cũng đói rách tội tù. Những lúc lâm nguy, dĩ nhiên Thịnh phải réo đến Hoàng cầu cứu, khiến Hoàng sợ tai tiếng, kêu trời như bộng, mà kết cuộc vẫn không nỡ bỏ rơi người bạn thuở hàn vi. Trong biến cố 1975, chỉ có Hoàng là bị kẹt lại và chịu học tập dài dài, vì anh ta vốn có tinh thần trách nhiệm, nên cho vợ con di tản, còn phần mình thì cương quyết giữ nhiệm sở đến giờ phút cuối cùng. Thịnh sang Mỹ, định cư tại miền Nam Cali, và sống chật vật với đồng lương tối thiểu của một người thợ không chuyên môn. Chỉ quen đi " cà nhỗng" , tà tà thả rểu bắt áp phe, nay phải chôn chân chịu đựng với đồng lương chết đói, Thịnh chịu đời sao thấu. Hắn thoạt đặt hi vọng vào các sòng bạc Las Vegas, trong một sớm một chiều có thể giúp hắn giàu nhanh mà không mệt nhọc. Sau những chuyến thắng lợi, hắn bị cháy túi tan tành đến nô㩠không còn tiền trả góp chiếc xe. Một người bạn cờ bạc gốc Mễ bày vẽ cho hắn dàn cảnh đụng xe, rồi nhờ luật sư kiện bảo hiểm làm tiền. Từ đó, Thịnh khám phá ra nghề dắt mối các vụ tai nạn xe cộ cho luật sư và bắt đầu làm ăn phát đạt. Mấy tháng sau, Thịnh lại nghĩ đến giải pháp, tự mình mở văn phòng dịch vụ, mướn luật sư đứng tên ăn chia, rồi đích thân móc nối bác sĩ, trực tiếp thương lượng bảo hiểm, và như vậy thì hắn " đớp" gọn hết một phần ba tiền thù lao, chưa kể phần móc nối ăn chia với bác sĩ nội khoa, bác sĩ phòng dịch vụ còn bao thầu luôn các vụ xin trợ cấp thuê nhà, lo hồ sơ bệnh tâm thần:" cho đồng bào tị nạn ăn tiền đầu, rồi thừa thắng xông lên, hắn mở cả văn phòng bác sĩ, nha sĩ mướn người khai thác ăn chia. Văn phòng dịch vụ thành công ngoài sức tưởng tượng. Chỉ trong vòng mấy năm. Thịnh trở thành triệu phú, làm chủ nhân ông vài mươi văn phòng đặt dài dài từ Los Angeles đến San Diego. Thương bạn, Thịnh cam kết truyền hết bí mật nghề nghiệp cho chú Năm, để thúc đẩy chú bắt chước làm giàu, mà chú Năm lại yêu cái nghề công nhân ba cọc ba đồng, nên cứ khăng khăng từ chối. Dù vậy, Thịnh vẫn liên lạc thường xuyên với chú, nài ép chú về Nam Cali chơi cho thỏa tình hàn vi chí thiết, nhưng chú Năm bận rộn chẳng mấy khi đáp ứng. Lần nầy, Thịnh vừa tìm ra tông tích của Hoàng, nên mới " hú" thì chú Năm đã vội vã lên đường.

Vì " lý do kỹ thuật" , chú Năm tìm đến nhà Thịnh trễ hơn bốn mươi phút. Khi đó, buổi họp mặt dưới danh nghĩa " thương nhớ quê hương" đã chuyển sang tiết mục chính yếu " mượn rượu thịt để phôi pha đời tị nạn" . Không khí vui nhộn, " chén chú chén anh" vô cùng xôm tụ; tiếng tây tiếng u, chữ nho " xổ" ra có chùm. Thịnh mừng rỡ đón bạn, ân cần giới thiệu từng người hiện diện : vài khuôn mặt cũ cùng với nhiều nhân vật lạ. Tuy nhiên, Hoàng, người bạn mà chú tha thiết tìm kiếm lại vắng mặt.

- Hoàng chưa đến sao Thịnh ?

- Tao thuyết phục cách nào nó cũng từ chối ! Nó bị vợ đá đít buồn đời chẳng muốn gặp ai !

- Mầy cho địa chỉ tao đi tìm nó liền mới được !

- Nó dấu biệt tông tích chẳng cho ai biết điện thoại, địa chỉ gì ráo ! nhưng tao vô tình gặp nó đang hành nghề bán xăng cho hãng Exxon cách đây 20 dậm, mầy đến đó, họa may gặp được nó !

Thấy chú chộn rộn muốn đi ngay, Thịnh tiếp lời :

- Làm gì lính quýnh nhặng xị vậy ! đến 12 giờ khuya thì mới tới " ca" thằng Hoàng làm việc. Vả lại, mầy phải ở đây nhậu một trận sanh tử với anh em cho trọn tình trọn nghĩa, rồi mới có quyền đi đâu thì đi

Dân làng nhậu đặc biệt hiếu khách, chỉ vài câu chuyện tầm phào, là anh em đã thông cảm ngay người bạn mới tới, ai cũng lớn tiếng đòi cụng ly với chú. Một anh chàng rót đầy tràn ly rượu màu đỏ như máu, lè nhè :

- Hích ! Hích ! đến trễn thì bị phạt rượu ! Anh " vô một trăm phần trăm" mới điệu nghệ với anh em !

Chú Năm cầm ly rượu ngần ngừ, thì Thịnh bồi thêm :

- Uống đi mầy ! loại bổ dương thượng hảo hạng hiệu nghiệm như thần đó ! rượu Martell cổ lùn pha với tiết dê, không phải có tiền là mua được đâu !

Thời trai trẻ, chú cũng hẩu món tiết canh, nhưng từ ngày đụng với mụ vợ nhà quê, khác món thịt cầy, tiết canh , nên chú kiêng cữ dần, nay không còn thấy hạp khẩu nữa. Do đó, nghe đến tiết dê, chú hơi nhợn, chú quanh co tránh né :

- Đặc biệt quá ha ! Mấy cha tìm đâu được huyết dê mà pha rượu như vậy !

- Ha ! ha ! Tao và hai thằng nữa phải lái xe đến nông trại cách đây 60 dậm thỉnh " ông thầy" về, cột chưng, nhét giẻ khóa mồm, rồi treo lên cây cam sau nhà để chuyên viên sáu Ngầu thọc huyết

Chuyên viên sáu Ngầu, mặt đỏ ngầu ngầu, đắc chí tiếp lời :

- Hạ " ông thầy" theo đúng truyền thống thì phải rượt đập ông thầy như tử, đợt cho chạy ít nhứt nửa giờ, mồ hôi đổ ra, thì thịt mới không còn mùi dê. Qua đây, tôi cải tiến cho " ông thầy" dộng một ly vodka, ông " đã đời" lả mồ hôi cũng công hiệu như thường. Cắt tiết cũng không phải dễ ! Tay mơ cắt nhằm động mạch thì huyết ít, lại đục và tanh rình ! phải biết chọn đúng tĩnh mạch, thì tiết vừa nhiều, vị thơm và bổ dưỡng nữa. Một phần tiết pha rượu, phần còn lại đánh tiết canh, hai món nầy hợp lại là thứ thuốc cường dương ngoại hạng đó !

Chú Năm đành phải hớp một ngụm rượu, " hà" một cái ra vẻ hài lòng :

- Rượu nầy coi bộ " dẫn" ghê à !

- Đây là thịt dê bảy món ! thứ nào cũng ngon đặc biệt hết, nhưng tiết canh dê độc đáo mới chính là món ruột của sáu Ngầu ! chưa nếm qua chết không nhắm mắt đó nhe !

- Xin giới thiệu với anh, sáu Ngầu là tổ sư tiết canh tại vùng Nam Cali, anh lừng danh nhờ đánh tiết khéo, ngon đặc biệt, mà tài nhứt là bất cứ lúc nào bạn bè đến chơi cũng biến hóa ra ngay dĩa tiết canh vịt thơm phức để đãi đằng !

- Thế thì lúc nào anh ấy cũng nuôi cả bầy vịt ở nhà à !

- Anh ta chỉ nuôi năm, sáu con vịt nhưng lại phát minh ra kỷ thuật lấy tiết thần sầu quỷ khốc, không ai ước lường nỗi ! Khi cần anh dũng ống tiêm rút mỗi con một ống đủ để đánh tiết, trộn với lòng gà, thành món nhậu hấp dẫn ngon lành ! Còn mấy con vịt bị rút máu hả ? mất một ống máu thì nhằm nhò gì ! chúng chỉ siểng niểng một chút, cho ăn uống bình thường thì mấy ngày sau có thể tái diễn món tiết canh nữa được rồi !

Thuở nhỏ, chú Năm nghe thân nhân kể chuyện, vài nơi ngoài Bắc, nông dân làm tiết canh bò bằng cách cho đĩa trâu bám vào cổ bò hút máu no nê, đoạn rạch xẻ đĩa vắt máu làm tiết canh. Chuyện đó nghe đã rùng rợn rồi, nhưng xem ra vẫn chưa mang được tính chất ma quái " dracula" như phương pháp rút máu tân kỳ của sáu Ngầu.

Chú Năm lợm giọng buồn nôn, chú nhờm gớm các món ăn thực hiện bởi bàn tay tàn nhẫn lạnh lùng của sáu Ngầu, chú bực bội khó chịu với mọi người : thực khác nào chẳng đồng lõa với trò ăn uống ác độc đó ! Chẳng muốn nhìn mặt ai, chú lơ đảng rồi bàn tiệc đi rửa mặt, vô tình chú thấy tượng Phật Di Lặc(1) được gia chủ thờ trong cái trang thần tài đặt trệt dưới thảm hại phòng khách. Tượng tạc chân dung vị hòa thượng mập mạp, mặc áo phơi ngực, bày bụng to, chung quanh có sáu đứa bé quấy nhiễu , mà vẫn hoan hỉ mỉm cười. Nụ cười Di Lặc có công năng xoa dịu tức khắc phiền não vô cớ của chú. Chú than thầm : " Bồ tát thỏng tay vào chợ độ đời mở toang sáu căn : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với trần cảnh mà vẫn ung dung tự tại, trong khi mình mới nghe chuyện trái ý một chút thì sân si đã rậm rật rồi ! Mỗi người mỗi ý, ai có sở thích nấy, có lề lối hưởng thụ khác nhau, sao mình khắc khe thắc mắc chuyện người ! Huống chi, anh sáu Ngầu tuy có lối phục vụ miếng ăn cầu kỳ một chút, nhưng anh là kẻ cần cù, tận tụy dùng trăm phương ngàn cách, cốt tạo ra món ngon dâng hiến bè bạn. Công lao cực khổ, lòng hi sinh của anh, lẻ ra mình phải thấy để tùy hỷ công đức tán thán, chớ đâu thể vô ơn bất mãn như vầy được !" . Chú vui vẻ hội nhập với anh em, rồi cất tiếng :

- Cảm tạ anh sáu Ngầu ! món ăn nào của anh đều độc đáo và ngon đặc biệt cả !

Xây qua Thịnh, chú ra vẻ trêu ghẹo :

- Bộ hết chuyện chơi ! sao mầy đem thờ Bồ Tát Di Lặc ở dưới đất vậy Thịnh!

- Đó là tượng Thần Tài ! mầy không biết sao hỏi lếu láo vậy ?

- Ai chỉ dẫn mầy thể thức thờ phượng đúng sai tao không lạm bàn ! nhưng theo tao hiểu thì đó là tượng Bồ Tát Di Lặc chớ không phải là Thần Tài !

Tao là kẻ làm ăn, dĩ nhiên thờ Thần Tài, chớ mắc mớ gì tao đi thờ Di Lặc ! chuyện thờ phượng mà mầy đùa dai chi lạ thế ?

Người Trung Hoa tạc tượng Di Lặc và Thần Tài giống nhau về hình dáng mập mạp, miệng cười tươi, áo phơi ngực, lộ bày bụng to tròn , nên rất dễ làm lẫn, nhưng thật ra, họ cũng tạo ra những điểm sai biệt rõ rệt, diễn tả ý nghĩa thâm trầm khác nhau. Tượng Di Lặc ngồi ngay thẳng, có đám con nít hoặc năm, sáu, mười tám đứa leo trèo, chọc phá. Tượng đứng thì có mang túi vải, có hoặc không có trẻ nít. Dù đứng hay ngồi, tượng Di Lặc với nụ cười từ bi hỉ xả, thể hiện tinh thần nhập thế độ đời mà không nhiễm bụi trần. Tượng Thần Tài không có con nít và túi vải. Tượng ngồi tại hơi nghiêng một bên hoặc hơi ngửa ra sau vững chải thoải mái; tượng đứng vươn vai hai tay ngửa lên trời khỏe khoắn đã đời; nét chính nổi bật của tượng thần tài là tính chất may mắn, thành công và thỏa mãn hưởng thụ. Tượng Thần Tài rất hấp dẫn ở Hoa Kỳ, người ta gọi là Lucky Buddha

Một anh đang ngồm ngoàm món dê hầm thuốc Bắc, hào hứng góp ý :

- Đúng rồi ! tôi đọc tuần báo News, thấy họ quảng cáo rùm beng tượng " Lucky Buddha" , họ tuyên bố là mỗi ngày chỉ cần xoa bụng tượng van vái thì cầu xin gì được nấy, không công hiệu hoàn tiền lại trăm phần trăm. Quảng cáo còn đăng tên tuổi địa chỉ cả trăm nhân chứng xác nhận đã hốt bạc nhờ xoa bụng tượng. Thằng Mỹ trưởng phân xưởng tôi, đạo công giáo gộc, mà cũng tin như điên. Hắn rinh về hai ông, thường khoe từ ngày có tượng, công danh lên như diều

Một người khác, có lẽ thuộc hàng đệ tử gia chủ, cũng lên tiếng :

Đại ca ạ ! Con nít là thứ phá hoại, hao tài tốn của chớ đâu phát tài được ! anh bạn nầy bàn nghe có lý phải không đại ca !

Thế thì bỏ mẹ tao rồi ! tao chê tượng thần tài cũ nhỏ, mới thỉnh tượng mới nầy ! Lầm lộn như vầy chẳng biết có " xúi quẩy" không ? Nè ! theo mầy thì thờ tượng Di Lặc có hên không ?

Tao chỉ biết đặc trưng tượng Di Lặc là đức hỷ xả vô lượng, thờ Ngài để học hạnh buông bỏ hận thù, buông bỏ thành kiến cố chấp, buông bỏ lòng tham đắm tiền tài, danh vọng tao nghĩ thờ Di Lặc để học được hạnh buông bỏ là may mắn đặc biệt đó, nhưng thật ra, hên xui là tùy theo quan niệm riêng của mỗi người, tao chẳng dám có ý kiến a !

Trời đất ơi ! làm ăn ai chẳng mong phát đạt, tiền bạc thâu vô càng nhiều càng tốt ! buông bỏ gì nỗi mà buông ! Thịnh cất tiếng thở dài thậm thược, rồi tiếp tục rên rỉ :

Ôi ! thảo nào từ ngày rước tượng về, công việc làm ăn của tao đình trệ hẳn ra, còn chuyện hao tài tốn của thì ào ào đưa tới ! Mầy nghĩ coi, bạn bè thân quyến, ngay cả thứ bà con xa lắc " bắn cà nông không tới" , ai cũng than thở, kêu réo xin tiền, riết rồi tao chịu đời hết thấu !

Câu chuyện khởi đầu như trò đùa, không ngờ lại khiến gia chủ rầu rĩ, sợ sệt thất thần, và do đó, thực khác cũng chịu vạ lây, ăn nhậu ngại ngùng, ngưng trệ. Chú Năm đành an ủi bạn :

- Hơi sức đâu mầy lo lắng thái quá vậy Thịnh ! Thờ lộn thì thờ lại ! Mai mầy ra phố Tàu, để chắc ăn mầy mua ngay hai tượng Thần Tài, một đứng một ngồi, thờ lủ khủ gỡ gạc lúc thờ lộn cũng được mà !

Ngưng một lúc, chú Năm thân mật và chân tình tiếp lời :

Nói cà rởn với mầy vậy thôi ! chớ thật ra, tao nghĩ cái gì cũng không qua thuyết " nghiệp báo" , họa phước do mình tạo, đã gieo hạt giống nào thì phải lãnh quả nấy, chớ không phải do tượng linh hay không linh đâu !

Một anh chàng trẻ tuổi, phách lối thô lỗ chận ngang :

Đ mẹ ! ở xứ Mỹ nầy, khôn sống dại chết, mạnh được yếu thua , giàu sang do bàn tay và đầu óc của mình chớ chẳng do nghiệp báo, Trời Phật gì ráo ! Tui chỉ tin tui, chớ đếch có tin Trời Phật gì hết ! Trời Phật có ngon, báo cho thằng nầy biết sáu số lô tô, cho thằng nầy trúng ngay mười triệu thì họa may thằng nầy mới tin nỗi ! hà ! hà ! .

Lời nói ngang bướng của tay nhậu nầy, nếu vài năm trước chú Năm nghe có lẽ chú khó chịu, giờ đây nhờ suy gẫm tinh thần Di Lặc, chú bình thản mỉm cười thông cảm. Chú nghĩ mỗi người hình dung Phật mỗi khác. Anh ta đồng hóa Phật như loại thần hạ cấp, sẵn sàng ăn hối lộ ban phước họa, và có lẽ, anh đã dụ dỗ " Phật !" , hứa hối lộ nồng hậu để được báo mộng lô tô hoài mà chẳng thấy nên mới nổi nóng như vậy. Dĩ nhiên " Phật !" theo kiểu của anh ta, không dính líu gì với Đức Phật, vị đạo sư mà chú Năm nguyện nương tựa học tập hạnh nguyện của người để tìm đạo giải thoát. Chú Năm yên lặng, nhưng Thịnh lại lên tiếng gây :

- Xì tốp dùm tao đi Quan ! Đừng phát ngôn bừa bải tại nhà tao ! Xui xẻo cả lũ thì sao ?

Thịnh chỉ sợ xui thôi, chớ trong thâm tâm chắc hắn cũng tán đồng với tên Quan nầy. Hắn rất khoái châm ngôn mạnh được yếu thua và rất tự hào về tài ba xảo thuật giúp hắn thành công tại xứ người, hắn chỉ nghĩ đến Trời Phật chẳng qua là để lợi dụng : chỉ bỏ chút đỉnh công thờ cúng mà được lợi to, vậy thôi.

Bất ngờ, sáu Ngầu, con người vốn lầm lì ít nói, bỗng tò mò hỏi :

- Hồi nảy, anh nói thờ tượng Di Lặc để học buông bỏ, nhưng buông bỏ cái gì nỗi với đám con nít leo trèo phá phách vậy anh ?

- Thưa, sáu đứa con nít là tượng trưng cho sáu căn : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi tiếp xúc với đời, sáu căn lăn xăn quay cuồng, khiến cho thương yêu, ganh ghét, vui buồn, hờn giận phát sanh. Bồ Tát cũng tiếp xúc với đời, cũng thả lỏng sáu căn tức sáu đứa con nít ra, nhưng không bị sáu căn quay cuồng làm loạn động, vì biết buông bỏ không đắm nhiễm, do đó, nụ cười lúc nào những tỏa ra niềm an lạc, từ bi và hỷ xả Thờ tượng Di Lặc nhằm học hạnh buông bỏ thù hận, thương yêu ganh ghét , để biết sống an lạc trong hiện tại.

- Nầy anh Thịnh ! anh không thờ tượng Di Lặc, thì cho tôi xin vậy !

Tên đồ tể khát máu mà đòi thờ Phật ! Chú Năm thoáng nghe hơi lùng bùng lỗ tai, vì không hiểu mình đang mơ hay tỉnh.

Quan cười sặc sụa, hổn hào ré vang :

- Ối trời đất ơi ! tận thế đến nơi rồi ! sáu Ngầu đòi tu bà con cô bác ơi !

Không đếm xỉa gì đến lời trêu ghẹo của Quan, sáu Ngầu nghiêm trang hướng về chú Năm cất tiếng :

- Tôi có mối hận thù hơn hai mười lăm năm nay vẫn đeo đẳng tôi, khiến con người tôi luôn luôn bị ray rức dằn vật, khổ sở triền miên. Tôi hy vọng tượng Di Lặc sẽ nhắc nhở tôi buông bỏ để an vui với nếp sống bình thường

Trầm ngâm thả hồn quay về dĩ vãng, sáu Ngầu chậm rãi kể lể :

- Đêm hôm đó, anh ruột tôi, một nhà giáo hiền lành tại Cầu Voi, Tân An bỗng bị bọn sát nhân tràn vào nhà, lên án tử hình, rồi cắt cổ anh tôi như cắt cổ con vật. Cảnh tượng rùng rợn đó xảy ra lâu lắm, mà tôi vẫn cảm tưởng như mới ngày hôm qua. Tôi đã thề nguyện sẽ trả thù, đích thân cắt cổ bọn chúng từng tên. Tôi rất quyết tâm, nhưng chuyện tầm thù lần lần trở thành vô vọng, nhứt là sau khi tôi đã lưu lạc đến xứ nầy. Tuy nhiên, niềm khao khát trả thù vẫn sôi sục, rồi có cái gì thúc đẩy tôi đổ dồn căm hờn lên đầu những con vật. Khi cắt tiết dê tôi thích thú như chính mình đang cắt cổ những tên khát máu ngày xưa, khi rút máu vịt tôi khoan khoái cảm tưởng như đang hành hạ bè đảng tham ô rút tỉa máu dân lành. Thế nhưng sau giây phút sung sướng ngắn ngủi đó, tôi luôn luôn trở về với sự thực, để rồi bao ăn năn, xao xuyến ray rức ngày đêm. Tôi phải học tập buông bỏ thì họa may mới thoát khỏi ám ảnh ma quái nầy

Chú Năm rất muốn nhắc lạc câu chuyện của Vô Não cùng với thiền ngữ " quăng dao đồ tể, ngay đó thành Phật" (2) để nung chí sáu Ngầu, nhưng ngần ngại rồi chỉ dè dặt an ủi :

- Tôi thật không ngờ anh Sáu có tâm sự buồn thảm như vậy ! Đúng đó anh Sáu, chuyện hiện tại vui buồn mình đã nên buông bỏ rồi, huống chi chuyện xa xưa. Mình ôm ấp thì chỉ mình bị khổ sở thiệt thòi mà thôi.

Dường như sáu Ngầu còn muốn bày tỏ thêm điều chi nữa, nhưng chủ nhà đã cười vui, tiệc rượu khởi sắc trở lại, tiếng hò hét cụng ly rộn ràng, khiến sáu Ngầu im bặt.

Chú Năm từ giả ra đi vào nửa khuya, thoải mái như vừa thoát khỏi một con trốt mù mịt. Chú hứa cuội với Thịnh sẽ trở lại nhà bạn ngủ nghỉ, nhưng lặng lẽ đi thăm Hoàng rồi trốn tuốt về Arizona mất dạng.

Sợ bị Thịnh chưởi, chú êm ru chẳng dám liên lạc thăm viếng gì cả. Chắc Thịnh cũng phiền chú, nên mãi đến hơn năm tháng sau mới điện thoại qua :

- Ê ! Năm !, tiếng Thịnh reo dòn tan vui vẻ.

- Tao nghe đây !

- Mầy qua Cali chơi mà được việc cho tao quá !

- Khỉ ! " phá mồi ăn hại thì có !

- Thiệt mà ! nhờ mầy chỉ vẽ cho tao thờ đúng tượng Thần Tài nên Thần Tài gõ cửa tao lu bù ! Ha ! ha ! tao thỉnh luôn ba ông, một ông ở văn phòng, hai ông ở nhà. Tại nhà, thì thắp nhang mỗi ngày, ở văn phòng thì xoa bụng van vái như bọn Mỹ, có lẽ, nhờ vậy nên hên không tưởng tượng nỗi ! áp phe vô ào ạt

- Tiền tài vô ngọt như vậy là quá đẹp rồi ! thôi thì mầy cũng nên bỏ bớt một mớ đem cầu phước, cầu đức đi mầy !

- Giỡn hoài mầy ! tao chỉ cần tiền ! cầu tiền vô thôi ! có tiền thì mua tiên cũng được ! còn phước đức thì mua được thứ gì vậy mậy ?

- Ơ ! thì đề nghị chơi vậy mà !

- Ê Năm ! tao vừa tìm ra một nghề mới cho mầy nè ! khỏe mà tiền vô đều đều hà !

- Nghề gì vậy cha ?

- Nghề " giặt tiền" (3) ! Mấy văn phòng dịch vụ của bọn tao cần phi tan những tấm chi phiếu của tụi bảo hiểm trả tiền để khỏi phải khai thuế. Tụi tao cần người tin cậy, giao chi phiếu đến ngân hàng lãnh tiền mặt ăn hoa hồng. Nghề nhàn nhã, mỗi ngày tà tà xách samsonite đi chừng hai tiếng, thế mà mỗi tháng thu vô năm sáu ngàn " đô" như chơi ! chịu không ?

- Nguy hiểm thấy mồ !

- Hừ ! đàn bà người ta cũng làm ào ào mà có sao đâu ? thân mầy như trâu ai dám phục kích giựt tiền mà sợ !

- Hì ! hì ! sợ là sợ con mụ vợ của tao ! Nó thấy tao diện kẻng xách samsonite đi mỗi ngày, nỗi cơn ghen phục kích đánh ghen mới nguy hiểm khôn lường chớ ! thôi mầy biết tính tao mà ! tao cám ơn mầy thương tao, muốn giúp tao, nhưng tao an phận nghèo với nghề công nhân mạt hạng mà ! A ! còn sáu Ngầu độ rày ra sao ?, chú Năm hỏi lảng sang chuyện khác.

- Thật là chuyện kỳ lạ bốn phương, khó tin mà có thật ! Lưu linh mà nó cai rượu, cai thuốc mầy ơi !

Thịnh kết thúc cuộc điện đàm bằng tràng cười sung mãn yêu đời.

Cuộc điện đàm tưởng vẫn còn văng vẳng bên tai, thế mà, chỉ hai tuần sau, chú Năm lại nhận được tin buồn của bạn. Thịnh bị giết bí mật và thảm khốc. Kẻ gian đã đập đầu anh ta như một con vật, cột chung trong bao với viên đá to tướng, quăng xuống biển phi tang, nhưng bằng sức mạnh nào, xác chết của Thịnh vẫn vọt lên mặt nước, để phô bày ra ánh sáng vụ sát nhân. Chú Năm tức tốc về Cali để kịp thời dự tang ma bạn. Chú nghẹn ngào trước cổ áo quan, muốn cất tiếng vỗ về, an ủi mà ấp úng chẳng nên lời. Một vị đại đức đang đơn độc tụng kinh cầu siêu, trong khi vợ con khóc lóc kêu gào kể lể từng cơn, và đám bạn bè tụm năm tụm ba xầm xì bàn tán hàng trăm giả thuyết về nguyên nhân án mạng. Chú Năm nghĩ giờ nầy có lẽ hồn bạn lẩn khuất đâu đây, đang nghẹn ngào tức tưởi, căm căm thù hận, rối ren thương tiếc miên man , mà thời tụng niệm lại đơn sơ, lạc lõng thì làm sao có đủ tha lực trợ giúp cho thần thức siêu thoát được. Chàng chỉ mong Thịnh nhớ lại hình ảnh tượng trưng của tượng Di Lặc, để buông bỏ tất cả và nhẹ nhàng ra đi, nhưng âm dương hai ngả làm sao giải bày. Chú thì thầm : " Buông bỏ ! Thịnh ơi ! tất cả đều giả tạm đừng luyến tiếc Thịnh ơi ! " .

Thời tụng niệm vừa chấm dứt thì sáu Ngầu len lại đứng gần chàng nói nhỏ:

- Cảm tạ anh tạo duyên cho tôi thờ tượng Di Lặc. Tôi đã buông bỏ được hận thù, bỏ được tật nhậu nhẹt và sống bình thường rồi anh. Niềm vui của tôi bây giờ, là làm việc có tiền gởi quà cho đám cháu ở nước nhà, ngoài ra, tôi cũng bắt đầu học hỏi Phật pháp, để tập giữ lòng bình an, thư thái nhẹ nhàng. Thật tội cho anh Thịnh không biết có phải vì việc cho tôi tượng Di Lặc mà ảnh gặp chuyện chẳng may không ?

- Không đâu ! anh ấy điện thoại cho tôi khoe là nhờ thay đổi tượng Thần Tài mà anh ấy hên vô cùng, còn vụ nầy thì kể ra

- Thần Tài cũng lại gõ cửa nữa !

Cũng tên Quan lấc cấc quen tật phát ngôn bừa bãi, ồn ào chen vào. Hắn thô lỗ chẳng giữ gìn ý tứ, cứ ong óng như chỗ không người, mặc cho thiên hạ bực bội, phớt lơ tiếp tục câu phê phán " xanh dờn" :

- Thần Tài linh ứng quá cỡ đa ! ảnh mới đóng bảo hiểm nhân mạng cách nay một tuần lễ, thì Thần Tài đã gõ cửa cái rụp , tiền bạc lại vô cái ào !

Rồi nhỏ giọng như than thở một mình, hắn nói tiếp :

- Có điều tiền vô bằng cách nầy thì cũng hơi trớ trêu một chút

2091




Ðời Ðường vua Ý Tôn ở đất Trường An có một nhà sư mắc phải bệnh cùi, hằng ngày thất tha thất thiểu trong bộ quần áo lang thang, mặt mày khô đét, thân hình gầy còm, tay chân lở lói, ai trông thấy cũng gớm nhờm.

Thỉnh thoảng, một vài người vì động lòng trắc ẩn, biếu cho chút ít quà bánh không đáng giá, ngoài ra không ai buồn đả động đến, hoặc hỏi han điều gì cả, vì vậy chẳng ai biết nguyên quán nhà sư ở đâu. Một hôm, trên con đường lớn xuôi về cổng chùa An Quốc, nhà sư tình cờ gặp Ngộ Ðạt, lúc ấy chưa phải là một tu sĩ nổi danh.

Thấy người đồng đạo trong cơn hoạn nạn, Ngộ Ðạt quá đau thương cố thỉnh về ở với mình. Trước tâm tình chân thật, lời lẽ thiết tha của Ngộ Ðạt, nhà sư nhận chịu. Ngộ Ðạt rước về chùa, kính như bậc thầy, hết lòng cung phụng. Mỗi ngày sáng dậy, Ngộ Ðạt lấy nước nóng, rửa lau ghẻ lở, tuyệt đối không tỏ vẻ gì nhờm gớm cả. Sau một thời gian khá lâu, nhà sư từ giã ra đi, Ngộ Ðạt tỏ lòng quyến luyến, cầm cọng lắm lời, nhưng nhà sư không đổi ý. Thấy thế Ngộ Ðạt thiết tha xin theo để sớm hôm giúp đỡ, nhà sư cũng từ chối nốt, bảo rằng: "Trên đường danh đức, ông ngày sau sẽ được hiển đạt, ông nên ở lại, đừng nghĩ việc theo tôi mà phải trôi nổi bình bồng, mai một khả năng siêu tuyệt của mình". Nhưng điều này nên để dạ: "Hãy cẩn thận trong khi hưởng thụ những phần hưởng danh dự, vì nó có thể làm tổn thương đạo niệm của mình. Tôi hết sức cảm nghĩa tốt của ông, vậy nếu sau nầy có bị tai nạn gì hãy nhớ qua đất Tây Thục, xứ Bành Châu, núi Trà Lung mà tìm tôi. Cứ đến lưng chừng núi, chỗ có hai cây tòng to tục gọi là "Song tòng lãnh" chúng ta sẽ gặp nhau".

Dặn dò xong, nhà sư từ biệt, Ngộ Ðạt rơm rớm nước mắt, trông theo đến khi khất bóng mới quay gót trở về.

Ngày qua tháng lại, Ngộ Ðạt đến thời kỳ hiển đạt. Bấy giờ ở kinh đô, người người đều quen biết và khâm phục danh đức của Ngài. Một vị sư có tài, có đức, giảng pháp hay, hiểu biết rộng, tiếng tăm vang dậy khắp nơi.

Vua Ý Tôn qua nhiều lần thăm dò, trải bao cơn thử thách, mới chịu thỉnh Ngài vào cung giảng đạo. Cách ít lâu lại phong Ngài lên làm Quốc sư và ban cho một pháp tòa bằng gỗ trầm thơm quí. Danh vọng này còn danh vọng nào hơn! Một hôm, nhân lên ngồi trên ghế trầm, nghĩ mình tài đức ai bằng, vua kiêng, quan phục, trăm họ kính nhường, Ngộ Ðạt thấy thật không còn nấc thang nào cao hơn nữa. Lòng tự đắc dâng lên tột độ, bỗng nghe xây xẩm mặt mày, Quốc sư vội bảo đồ đệ dìu vào phương trượng, nằm mê man suốt hai ba giờ mới tỉnh lại. Cảm nghe trong mình khó chịu biết đã thọ bịnh, chợt rờ xuống gối nghe đau vén quần lên, thật là hết sức kinh ngạc. Một mụt ghẻ giống tạc như mặt người, có mày mắt, miệng, tai, mũi đủ cả. Ghê tởm quá! Kinh sợ quá! Quốc sư ngất đi, các đồ đệ kêu vực mãi mới mở mắt, bỗng nghe dưới mụt ghẻ nghiến răng, đau buốt thấu xương, khổ sở quá không phương gì cứu chữa. Các danh y và Quốc y đều được vua mời đến chữa cho Ngài, mà mỗi lần thoa thuốc men là mỗi lần chết giấc chớ không thấy thuyên giảm phần nào cả. Nhưng lạ, hễ mỗi lần đút thịt vào thì lại thấy mụt ghẻ ăn ngay và lại nghe trong mình êm ái dễ chịu. Thật là một quái bệnh xưa nay chưa từng thấy. Các danh y, quốc y đều thúc thủ lăn lóc chịu khổ sở mãi như thế đến hơn tháng trời, nằm nghĩ cuộc đời chả ra chi, thân như bọt nước thoạt có, thoạt không, thoạt còn, thoạt mất, đáng ghê sợ. Nhân nhớ đến vị sư bịnh khi xưa, ôn lại những lời dặn dò thiết yếu, Quốc sư sực tỉnh, bèn cố gắng một thân bị đau nhức, cắn răng lần mò qua đất Tây Thục, xứ Bành Châu.

Vất vả khổ sở suốt mấy tuần mới đến chân núi Trà Lung. Bởi đường dốc quanh co, nên mãi đến lúc hoàng hôn mới tìm ra được dấu. Kìa hai cây tòng đà lộ bóng, nhưng vị sư đâu chẳng thấy hình dạng; nếu không tìm gặp, thì đêm nay không khỏi dả thú nhai xương giữa chốn rừng núi hoang vu, không một bóng người thấp thoáng. Ngộ Ðạt đang ngơ ngác đoái nhìn bốn phía, lòng những lo sợ bồi hồi, thì may quá, hình bóng thân yêu và quen thuộc khi xưa của vị sư, bỗng hiện ra trong một gộp đá gần đấy. Một tiếng kêu rú thất thanh vì mừng, Ngài Ngộ Ðạt bất chấp đau đớn, chạy lại và leo nhanh lên gộp đá, ôm choàng lấy vị sư hỏi han rối rít. Khi bộc lộ hết những nổi vui mừng, khao khát của mình rồi, Ngài bèn kể bằng nước mắt sự khổ sở đau đớn của mình cho vị sư nghe. Vị sư thốt lời an ủi và dìu dẫn Ngộ Ðạt về Thảo am trên lưng chừng núi, Ngộ Ðạt thưa:

- Bạch Thầy, kẻ đệ tử đang lâm vào cơn khốn nạn, bức bách, khổ sở không còn bút mực nào tả xiết, xin thầy rủ lòng từ bi ra tay tế độ giúp cho đệ tử thoát nạn, ơn đức Thầy thật vô lượng vô biên.

Không hại gì, vị sư đáp, oan oan nghiệp chướng của ông đã vay từ nhiều đời về kiếp trước, ngày nay phải đến thời kỳ đền trả. Ông phải ẩn nhẫn trả xong mối nợ máu tiền kiếp ấy, mới có thể giải thoát được. Ðức Thế Tôn ta khi xưa còn thị hiện nạn gươm vàng đâm vế, ăn lúa ngựa thay, huống chúng ta là hạng người phàm phu làm sao mà thoát được. Nợ mình đã trả thì sẽ hết, nhưng cần thiết là đừng nên vay nữa mới được.

- Thưa thầy, thầy nói nợ máu là thế nào đệ tử không hiểu ra sao cả, xin thầy hoan hỷ giảng cho.

- Chuyện ấy rồi ông tất sẽ rõ, vì đã có người sẽ nói cho ông nghe giờ khắc rất gần đây.

Rạng ngày hôm sau, nhà sư dạy đồng tử dẫn Ngộ Ðạt xuống ngọn suốt dựa triền, lấy nước rửa ghẻ. Ðồng tử vừa toan khoát nước thì thoạt nghe tiếng thét từ trong ung thư phát ra: "Khoan, hãy khoan đã, ta có việc cần muốn nói với ông".

Ngộ Ðạt và đồng tử đang cơn kinh ngạc, thì mụt ghẻ tiếp lời:

- Tiếng đồn ông là người học rộng, vậy ông đã từng đọc sách Tây Hán chưa?

- Ðã có xem qua vài lượt, Ngộ Ðạt đáp.

- Vậy ông có nhớ chuyện người Viên Án dèm tâu với vua Cảnh Ðế chém chết Triệu Thố ở phía đông chợ chăng?

- Nhớ lắm, nhớ lắm. Nhưng hỏi thế để làm gì?

- Chính ông là Viên Án còn Triệu Thố là tôi, ông giết tôi oan đến dường nào, ông có biết chăng? Thù ấy, oan ấy, thâm xương thấu cốt tôi đã từng mười đời theo dõi bên ông để tìm dịp báo oán, nhưng suốt mười đời ông luôn luôn làm bực cao tăng, tinh nghiêm giới luật, tôi đành ôm hận, nhưng quyết theo mãi, đến khi nào trả xong mối thù, đòi xong món nợ máu mới thôi. Mới vừa rồi, được dịp thuận tiện, ông vì vua kính chuộng, ban cho tòa trầm hương, phong làm đến Quốc sư, vinh quang hiển hách, do đó tâm danh lợi nổi lên, khí kiêu căng bừng khởi, khuyết phần đức hạnh, tôi mới nhân cơ hội đó làm hại ông để đòi món nợ nần trên. Ngày nay, nhờ Ngài Ca Nặc Ca Tôn Giả thương xót ra tay cứu giải cho ông, lại cho dùng nước Tam muội rửa tội, nhờ thần lực của Ngài khiến cho ông và tôi, từ đây oán hận không còn, cừu thù tan mất, vậy kính khuyên ông, hãy cố gắng tinh tấn tu hành và chúc ông vuông tròn đạo nghiệp. Tôi xin chào vĩnh biệt.

Ngộ Ðạt nghe xong, đầy mình mộc ốc. Ðồng thời với tay khoát nước rửa mụt ghẻ, nước vừa chạm đến thịt, Ngộ Ðạt nghe đau buốt thấu xương, ngất lịm hồi lâu. Khi tỉnh lại, mụt ghẻ đã lành da thịt liền lại như xưa, không chút vết sẹo nào. Quốc sư mừng quá đến chảy nước mắt, vội trở lên núi cảm tạ ơn dày của Tổ, tự thệ từ đó tinh tiến tu hành không dám chậm trễ nữa.

Tương truyền bộ Thủy sám ba quyển vốn tự tay Ngộ Ðạt viết ra để làm pháp sám sau khi lành bệnh.


Hết





482




Ba bà cụ đang đi dạo bằng xe hơi với tốc độ 20 km/giờ trên xa lộ. Một viên cảnh sát ra lệnh cho xe dừng lại và hỏi bà tóc vàng:
- Tại sao bà cụ lái xe quá chậm?
- Đây chính là tốc độ quy định cơ mà? Tôi nhìn thấy số đó trên tấm biển kia kìa!
- Đấy không phải là biển quy định về tốc độ, mà là số của con đường. Hiện giờ bà đang ở trên đường số 20. Viên cảnh sát ghé mắt nhìn phía băng ghế đằng sau và thấy hai bà cụ khác mặt mày tái mét, còn đang run rẩy. Anh ta hỏi tại sao, cụ bà tóc vàng trả lời tỉnh bơ:
- Bởi vì chúng tôi vừa ra khỏi "đường số 340".
1726




Sướng gì hơn sướng làm lành
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu


Công chúa Nhật Quang là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ.

Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá Vệ; Công chúa lại rất thông minh học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người kính trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Ðối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.

Ba Tư Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá Vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.

Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng: "Khắp nước Xá Vệ này không ai được hạnh phúc bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy".

Công chúa Nhật Quang thành thật trả lời: "Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ hoàng và Mẫu hậu như trời bể con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng có ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu nhân tích đức nhiều vậy".

Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba Tư Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy, lặng lẽ trở vào cung.

Ðêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và vua rất bực tức, đứa con yêu và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng tự ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.

Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba Tư Nặc vương liền đòi viên cận thần thân tín bảo rằng: ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa Nhật Quang mà hiện sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.

Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô, nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba Tư Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh niên hành khất rồi bảo rằng: Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta đem công chúa Nhật Quang gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu tùy ngươi.

Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.

Vua lại kêu công chúa Nhật Quang đến phán rằng: hôm kia con đã nói: "Hạnh phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước. Nay ta muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung".

Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Vua Ba Tư Nặc vương, công chúa không dám nói gì, chỉ yên lặng trở về hậu cung.

Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với thanh niên hành khất.

Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai dám mở lời khuyên can!

Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng: Cha mẹ chàng đâu? Nhà cửa chàng đâu? Vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế?

Thanh niên buồn rầu đáp: "Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng không đâu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp không biết nghề gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhật. Hôm nay tôi đang lang thang giữa đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết gì sao nhà vua lại đem công chúa gã cho một kẻ nghèo hèn như tôi?".

Vẫn nét mặt ôn hòa công chúa nói với thanh niên hành khất rằng: "Dù sao từ nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước hết phải tìm nơi tạm trú".

Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại - thật là một mảnh vườn hoang phế, cỏ lác um tùm sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn cây che một chiếc chòi nhỏ vừa tạm ở, những người quanh đấy có người biết công chúa Nhật Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Ðến khi đào đất để dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng đem bán bớt một số châu báu rồ9 mướn ngườ9 dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài... Vốn sẵn tánh hiền lành lạ9 sẵn lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia đã biến thành một vườn hoa trăm sắc muôn màu; lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp nập không khác dinh thự của bậc đế vương.

Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba Tư Nặc sanh lòng hối hận đêm ngày trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng: Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra sao?

Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua: "Công chúa ở cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu sung sướng giàu có ức triệu". Vua Ba Tư Nặc không tin, liền đến nơi dò xét quả đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với kẻ tả hữu rằng: "Trẫm thấy đời sống của vợ chồng công chúa Nhật Quang hiện tại, tuy trẫm là vua một nước, thật cũng không sung sướng bằng".

Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.

Vốn nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc đại giác, nên vua thân hành đến Tịnh xá nơi Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Nghe danh Ngài là bậc đại giác chứng nhất thế trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều nghi xin Ngài chỉ dạy: "Nhật Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, giàu có sang trọng... Ðệ tử đã gả công chúa cho một kẻ hành khất nghèo hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người.

Ðệ tử cứ thắc mắc mãi mong Ngài từ bi khai thị cho đệ tử rõ?"

Ðức Phật Thích Ca nở nụ cười hiền hòa muôn thuở thong thả dạy rằng: "Nghi vấn Ðại vương sẽ được tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này:

- Nầy Ðại vương! Xưa kia khi Ðức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ việc ác làm lành, quy y Tam bảo, lại hay làm việc bố thí cúng dường, nhất là đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm chăm sóc. Người chồng lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái độ bất bằng, tìm cách ngăn cản.

Một hôm gặp ngày nguyên đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường Tam bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói rằng: "Hãy để dành tiền của lại sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ làm những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì!". Người vợ dịu dàng trả lời: "Của cải là vật vô thường ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta; hơn nữa những kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời trước tham lam ích kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện; ngày nay đời sống của vợ chồng chúng ta tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện để bảo tồn hạnh phục tương lai cho chúng ta, và cũng gọi là góp một phần trong công việc nghĩa chung vậy".

Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong công việc làm phước đức...

Này Ðại vương! Vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật Quang ngày nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, quy y Tam bảo, nên được quả báo thông minh xuất chúng; đời trước sốt sắng cúng dường bố thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục; đời trước tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.

Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách một thời.

Vua Ba Tư Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật Quang, nhà vua mới tỉnh ngộ, và rất thâm cảm đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu đảnh lễ Ðức Phật ra về.

Về đến cung, công việc đầu tiên của vua là cho người đón rước vợ chồng công chúa Nhật Quang về. Gặp công chúa, vua Ba Tư Nặc khôn xiết vui mừng, vua không quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật Quang cũng rất sung sướng được gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau dồi đạo đức, bảo quốc an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức quan cao cấp trong triền đình.


Hết
471




Một con gấu đực và một con thỏ tình cờ cùng được gặp vua Cóc Vàng.
- Các ngươi thật may mắn. Ta là vua Cóc Vàng ở khu rừng này, ta cho mỗi ngươi ba điều ước. Nào nói đi! Gấu giành nói trước và ước tất cả gấu trong khu rừng biến thành gấu cái. Thỏ khiêm tốn xin một cái mũ bảo hiểm. Trong điều ước thứ hai, gấu đực lại muốn khu rừng bên cạnh cũng toàn gấu cái, thỏ xin một chiếc môtô. Trước khi nói điều ước thứ ba, gấu chê thỏ toàn ước mơ tủn mủn, rồi gã cao giọng:
- Hãy biến tất cả gấu trên trái đất thành gấu cái hết! Thỏ lắc đầu buồn bã, ngồi lên xe nổ máy. Trước khi vọt đi, nó nói:
- Gấu ạ, mày thật là ích kỷ và háu gái. Tao cầu cho mày thành gấu pêđê!
2230




Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.

Em nhớ làm chi tiếng ái ân
Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm
Dây loan chẳng đượm tình âu yếm
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.


Bên gốc thông già ta lỡ ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân thì.
Em nên xóa dấu thề non nước
Bên gốc thông già ta lỡ ghị


Chẳng phải vì anh, chẳng tại em
Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm.
Ái ân sớm nở chiều phai rụng
Chẳng phải vì anh, chẳng tại em.


Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan,
Tình kia sao giữ được muôn vàn...
Em đừng nên giận tình phai lạt
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan.


Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương chẹ
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.

1485




Người đàn ông cùng với một cô gái vào dịch vụ massage xông hơi, người phục vụ không chịu cho họ tắm chung một phòng, ông khách nài nỉ:
- Nhưng đây là vợ tôi mà.
- Ái chà! Vợ ông sạch sẽ quá đấy! Ngày hôm nay, cô ấy đã tắm ở đây đến lần thứ tư rồi.
1768





 

Ăn cơm mới nói chuyện cũ.Vâng đúng là như thế, chả là vì nhân một buổi họp mặt một số cựu học sinh trường Trung Học Biên Hoà tại Bắc Ca li, tôi gặp lại Xuân, người bạn gái, bạn học thân nhất của tôi những ngày xa xưa . Hỏi các bạn nghĩ thử mà coi nếu không “ăn cơm mới nói chuyện cũ” thì nói gì bây giờ hở trời, sau những câu chào, hỏi thăm nhau về sức khoẻ, về công ăn việc làm …hỏi gì nữa đây ? Hỏi về chuyện chồng con thì cũng ngại ngùng quá, nhưng không hỏi thì sợ rằng người bạn cũ của mình sẽ trách là sao quá vô tình, nên cứ vờ phải hỏi : “Xuân à , Ông ấy giờ làm gì ? Xuân vẫn cái tánh ỡm ờ, vờ vịt như ngày nào :” Hoà nói ông ấy …là ông nào vậy ?” Thì là …ông nhà Xuân chứ còn ông nào . Ai trồng khoai đất này “ . Xuân chu môi ngúyt tôi một cái dài . Cái nguýt như một lưỡi dao cùn , cùn rồi vì hai bên khoé môi đã hằn rõ những vết chân chim …đại bàng, lưỡi dao ấy vừa xước qua vết thương cũ của tôi, tôi nghe một chút đau, một chút dằn vặt và hình như nó lại bắt đầu rỉ máu, giống như những lúc trái gió trở trời, tôi vẫn mãi hoài đớn đau với nó . Tôi biết trong đôi mắt Xuân như chứa nhiều điều trách móc. Mà lạ nhỉ ? Sao lại trách móc tôi hở Xuân ? Ngày ấy nào tôi có lỗi gì ?

Ngày ấy chúng tôi thân nhau lắm, hơn mức tình bạn một chút, mặc dù chưa đứa nào dám nói với nhau điều gì về tình yêu, chưa từng biết mùi vị đắng chát của đôi môi nhau, chỉ biết sơ sơ về dòng điện cực mạnh phát ra từ bàn tay nhau thôi . Ấy thế nhưng đứa nào cũng có cái …”nhạy cảm”, tự biết rằng hai đứa đã là của nhau, cũng đã ghen thầm, cũng đã giận hờn, nhất là Xuân, ôi thôi khi nàng giận thì trời đất cũng muốn xụp xuống, mây mù che kín bầu trời, thế giới trở nên tối tăm, mưa giăng ngập lối . Có lần như thế này thôi mà nàng giận tôi đúng một tháng trời, một tháng trời không thèm cho tôi gặp mặt, thấy tôi từ xa là nàng đã tìm đường lẫn tránh, vào lớp học nàng cố tình như không thấy tôi . Chẳng nói thì các bạn cũng biết tôi khổ sở như thế nào, tôi mất ăn mất ngủ như thế nào, tôi ốm o gầy mòn ra làm sao …Câu chuyện thế này : Hai đứa tôi đang ngồi trong một quán kem, tôi ngâm nga theo câu hát đang phát ra từ dàn Akai của quán :“Ôi tóc em dài đêm thần thoại …”Đúng vào lúc có hai cô gái tóc thề bước vào quán, thế là nàng vùng vằng, nàng bảo tôi là coi thường nàng, có nàng ngồi đây mà còn …dám tung lời ong bướm với những cô nàng khác …Thật là ngang ngược, tôi giải thích thế nào cũng không chịu nghe, cuối cùng tôi xuống giọng xin lỗi, nàng cũng không tha lại còn kết tôi tôi thêm :” Đấy nhận rồi nhá , vậy mà còn cãi “ . Nói rồi ngùng ngoằng nàng bỏ ra khỏi quán đi một mạch, bỏ lại mình tôi ngồi trơ gan cùng tuế nguyệt . Rồi giận mãi .

Đã lâu qúa mới gặp lại nhau . Đã lâu qúa chả hề nghe tin nhau . Đã lâu qúa để lạc mất nhau trên đường đời . Tình cờ hôm nay gặp lại, những tháng năm cũ như sống dậy và tự dưng tưởng như mình trẻ lại như xưa . Ngày xưa hai đứa sau khi xong bậc trung học cùng rủ nhau vào học sư phạm . Tôi thì thú thật là cũng chả ham gì cái nghề dạy học đâu, vì tôi sớm biết đó là cái nghề bạc bẽo mà, tôi vào sư phạm là để tránh đi lính, đơn giản thế thôi, còn nàng thì muốn gần tôi như chim liền cánh, như cây liền cành thế nên nàng theo tôi ra đi . Chúng tôi ra tận mãi Qui Nhơn, quê hương Hàn Mặc Tử, vì tôi có gia đình ông cậu ở đó, vả lại lúc đó vào trường Sư Phạm Qui Nhơn có phần dễ dàng hơn . Nàng ở nội trú . Gọi là nội trú chứ nàng vẫn “dù” đi chơi khuya với tôi hoài . Chỉ đi chơi thôi, đi uống cà phê, đi nghe nhạc, đi coi phim …và vẫn chỉ tay trong tay, mắt trong mắt, chứ môi vẫn chưa trong môi chứ đừng tơ tưởng những chuyện khác . Thằng tôi cù là như rứa . Có lẽ cũng tại cái mùi dầu cù là trong tôi mà tôi đã lỡ một cơ hội, đã nghìn năm ôm mối hận lòng khôn nguôi .Sau này khi chia tay nàng có nói với một người bạn khác của tôi :” Tại Xuân thấy Hoà thế nào ấy …Hoà chả nói gì, Hoà cũng chả …làm gì. Hoà đi chơi với mình cứ y như là một người bạn thông thường  …” . Trời khi tôi nghe được những điều đó thì …đã muộn màng . Chả là vì khi học ở Qui Nhơn nàng có quen một nam giáo sinh . Anh chàng tướng tá rất nghệ sĩ, viết nhạc khá hay, chơi đàn cũng giỏi ….nói như thế để thấy là đối thủ của tôi hơn tôi vài bậc .Tôi đã từng ghen mấy độ với tay này .Vì là tánh tình của một nghệ sĩ cộng với cái tánh tinh nghịch nên anh chàng giáo sinh nhạc sĩ này cũng phá phách ghê lắm, hắn chỉ phá ngầm thôi, nhưng ông cụ bà vãi ta ngày xưa đã nói “tẩm ngẩm, tầm ngầm mà đấm chết voi “. Hắn cũng là một tay uống rượu rất cừ .Có đêm hắn say mèm bò về tới nhà trọ trên đường Gia Long thì hết sức không vào nhà được, lăn ra ngủ ngoài thềm cửa . Sáng ra chủ nhà dậy sớm thấy khách trọ của mình quần áo xốc xếch, ói mửa tùm lum …thấy ghê quá bèn bịt mũi bỏ chạy vào nhà trong xách nước ra dội rửa thềm hè phố .

Một dạo trong nhóm giáo sinh nữ cứ thì thầm, xôn xao mà bọn con trai chúng tôi chả hề biết điều gì xảy ra . Chúng tôi gạn hỏi vài người bạn nhưng những cô bạn ấy chỉ tủm tỉm cười ra điều rất ư là bí mật không chịu thố lộ gì hết. Một hôm tôi về nhà đang ngồi mơ màng soạn giáo án thực tập thì nghe đứa em gái con ông cậu tôi đang nói chuyện xì xào nhỏ to với cô bạn của nó ở nội trú mới ra :” Thằng cha cà chớn, thiệt bậy bạ “ Rồi chúng cười khúc khích .Tôi tò mò lắng nghe .”Thằng cha ấy viết tên của chả ngay đáy quần lót của tao, tao bị hai cái rồi đó mày “ . “ Chắc thằng chả …mê mày rồi “ . “ Ai mà thèm mê thằng chả chứ .”” Thằng chả coi cũng được, đàn hay, hát giỏi và nhất là biết viết thơ, viết nhạc mày còn …chê chỗ nào “ . Thế rồi hai đứa đấm nhau thùm thụp cười như nắc nẻ .Tôi ngỡ ngàng tự hỏi thằng chả nào đây cà …hay là thằng chả nhạc sĩ giáo sinh trong trường mình . Và đúng như thế, người giáo sinh tài hoa ấy cứ vớ được cái quần lót nào của nội trú sinh phơi trong khu nội trú là chàng ta cứ “ịn” cái tên mình vào đó, vào ngay chỗ đó thế mới độc chứ và làm cho khối những nàng giáo sinh “nhạy cảm” cứ tưởng rằng chàng lãng du kia khoái mình nên đem tình trêu ghẹo .Các cô chả cô nào tiết lộ cái điều bí mật ấy ra nên ai cũng chỉ nghĩ là …chỉ mình dành được đặc ân ấy cho riêng mình . Xuân của tôi ngày xưa ấy cũng  “nhạy cảm” y như thế, và từ đó nàng rời xa tôi, mỗi ngày mỗi xa  . Cuối cùng thì chàng hào hoa một đời yêu mưa gío kia chả thương cô nào .Cô nào cũng được anh hát tặng cho những bài tình ca bất hủ .Cô nào anh cũng nháy mắt cười bằng đuôi con mắt mà người đời gọi là lẳng lơ . Nhưng đến giờ này ngồi suy cho kỹ, nghĩ cho cùng, thì chàng kia cũng chả có lỗi phải gì .Có chăng là do cái tánh nhạy cảm của người đời  và cái phá phách ngông cuồng của một cuồng sĩ .Ta có thể trệu trạo mà nói rằng :” Hắn ta là của mọi người “ .Hắn chẳng của riêng Xuân , nên Xuân vỡ mộng, Xuân buồn, Xuân cũng ngượng ngùng chẳng dám gặp lại tôi . Xuân thất tình, Xuân ra trường xin về miền núi dạy trong mấy buôn làng của người dân tộc thiểu số . Từ đó hai đứa tôi mất liên lạc với nhau . Đứng nhìn em khăn gói lên xe thổ mộ về vùng hoang vắng là …”biết xa nghìn trùng “ .

Nào ngờ hôm nay gặp lại . Chuyện cũ tưởng như còn mới trong đầu, nhưng khác một điều là dầu cù là trong tôi đã nhạt mùi theo số tuổi đời chồng chất . Lợi dụng lúc mọi người cười nói râm rang tôi ghé sát tai Xuân nói cho vừa đủ nghe :”Giá mà lúc xưa mình bạo gan bạo phổi hơn một chút thì …” . Xuân phá lên cười :” Ừ giá mà Xuân, lúc đó  dám hỏi thẳng Hoà là “ Hoà ơi Hoà có thích Xuân không “ trước khi quyết định chuyện …”cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ” thì có khi bây giờ đã khác… Chắc vết thương cũ cũng tấy nhẹ trong da thịt nàng, nên thấy nàng có vẻ đăm chiêu, mơ màng. Nếu như chúng tôi có thể làm cho mình trẻ lại như thuở nào ngay lúc bấy giờ thì...trăm phần trăm là...chúng tôi sẽ quyện vào nhau...hôn nhau...đắm đuối trước những ánh mắt...kinh sợ của bạn bè để không còn bỏ lỡ đường tơ  con nhền nhện. Nhưng than ôi ! Không thể chối cãi là cả hai đứa  "đã già". Ngọn "lửa lòng" cũng đã lụn chỉ còn tàn tro, chỉ còn là tiếc nuối hùi hụi. Ngồi đây nhìn nhau mà ngậm ngùi.

Phải chi dạo đó Xuân không "nhạy cảm" với trò chơi vô cùng gợi cảm của chàng nhạc sĩ giáo sinh thì biết đâu chúng tôi lại không bị thất lạc nhau. Chém cha cái gọi là nhạy cảm . Thực hư cứ như là cái tổ con chuồn chuồn chả ai biết nó ở đâu .

840




Nhà Tommy mở tiệc đón năm mới và Tommy được giao nhiệm vụ đưa bánh kem vào tủ đá làm đông kem. Cuối bữa tiệc, mọi người dùng món tráng miệng. Tommy vội vàng mang bánh kem ra.

“Trông chiếc bánh này ngon quá!” - bác nó nói rồi cắn một miếng to, trong khi mắt vẫn liếc vào chiếc bánh tiếp theo.

“Tommy, bánh ngon ghê” - ông hoàn thành việc cho chiếc bánh thứ hai vào bụng và khen ngợi Tommy.

“Bánh vừa đẹp mà kem lại đóng đá rất đều, cháu làm thế nào mà chúng lại đều thế?” - ông bác lại cắn một miếng bánh lớn hơn.

“Dạ, cháu phải liếm xung quanh mới được thế đấy ạ!” - Tommy nhỏ nhẹ trả lời.1906


Powered by Blogger.