Vác một đàn con trên vai
Ta đi bụi đời
Chín hướng mười phương

Trạm đầu dừng chân
Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới
Bến dứa trổ gai
Thân tù tội
Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no
Đêm nằm co sàn gạch
Lạnh rút gân nghe con khóc òa
Mẹ đứt ruột
Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu
Con muỗi buồn xo
Con muỗi vo ve

Vác một đàn con trên vai
Lôi thôi lếch thếch
Thân ăn mày
Tự đáy biển trồi lên đầu non
Mẹ nhìn con
Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm
Con nhìn mẹ
Xơ xác liễu hồn
Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ
Ăn qua bữa
Miếng tủi miếng thắt
Mặn lạt tình thâm

Bằng đôi chân của khủng long
Bằng đôi cánh đại bàng
Bằng trái tim gà mẹ
Ta áp đảo biển đông
Dọn đường thế hệ
Đưa con đến xứ hào quang
Rộng nhìn năm châu
Nở bừng trí tuệ

Đến đây
Bốn mùa tiết đổi
Cây trái ngọt lành
Mẹ mẹ con con
Lết mòn ruộng dâu
Từ đất bùn ta đứng lên
Cất tiếng hát mừng đời tự do
Tiếng hát thấm đòn
Tiếng hát vẫn dòn tan

Thấm thoát mười sáu năm
Ta tất bật bụi đời
Quên thời gian quên phấn quên son
Hôm nay nghe con ra trường
Ta rộn ràng
Thấp thỏm soi gương
Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt
Mới giựt mình
Thấm mệt
Tuổi xuân đã tiêu ma

Hôm nay con mừng vui
Ai cũng mừng vui
Riêng ta
Ta đứng bùi ngùi
Riêng ta
Ta đứng bồi hồi
Nghe loa xướng danh tên con
Tân khoa tiến sĩ
Mẹ òa khóc
Tưởng gọi đúng tên mình
926




Con của một sếp lớn đến trường, tay ôm một lô các cuộn giấy fax đắt tiền. Một quý tử con nhà mafia đi xe Jeep ngang qua hỏi:
- Sao thế, máy fax của lớp cậu hết giấy à?
- Không, đem nộp giấy vụn ấy mà! Sao hôm nay cậu lại đi xe Jeep, oai thế!
- Oai gì đâu, hôm nay lớp tớ gom sắt vụn.
1777




Cộng doanh số bán hàng trong ngày, thấy nhân viên mới đến bán được những 100 ngàn đôla, chủ cửa hàng gọi anh này lên hỏi:
- Chỉ với một vị khách, làm thế nào mà cậu bán được ngần ấy tiền hàng?
- Đầu tiên, ông ta mua một lưỡi câu nhỏ. Sau đó tôi khuyên ông ta mua thêm một cái loại vừa và một cái lớn. Mua xong lưỡi câu, tôi bảo ông ta nên mua thêm dây câu: loại nhỏ, loại nhỡ và loại to. Tiếp đến là cần câu, lều câu, xuồng câu hai động cơ... Cuối cùng, thay vì chúng ta phải chở hàng đến tận nhà cho khách, tôi khuyên ông ta nên mua luôn một chiếc microbus chuyên dùng để chở xuồng và đi picnic.
- Như vậy là cậu đã thuyết phục và bán cho ông ta tất cả mọi thứ bắt đầu từ ý định chỉ mua một cái lưỡi câu. Giỏi lắm!
- Không hẳn thế đâu ạ
- cậu nhân viên giải thích
- Ông ta đến mục đích chính là mua một hộp băng vệ sinh cho vợ. Nhưng tôi khuyên ông ta rằng: Nếu vợ ông ở tình trạng như vậy, thì ông không nên ở nhà mà tốt nhất là đi câu vài ngày.
2245






Mùa chướng xổ cửa đất Phương Điền. Nửa đêm cả nhà tôi tốc mùng ngồi nghe tiếng ngói dịch lắc cắc, rờn rợn trên mái nhà phía Đông Nhân Phủ. Má tôi mở cửa sổ, kêu vọng qua bên đó, "Thằng Tứ Hải đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để không may ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen". Dứt tiếng thì cái đầu tóc ngái ngủ bù xù của ông chủ trẻ của "Nhân Phủ" lù lù trước sân, tay na con Tha, chị Thể vợ anh dắt con Tho đi sau, thả hai đứa nhỏ vô mùng tôi, anh làu bàu, "Cha, điệu này biết nhà mình có qua được mùa gió này không đây, Út Nhỏ ?".

Tôi thở dài cái thượt như cũng đang nặng lo cho "nhà mình" (mặc dầu hơi ngẩn ngơ, mình có vai gì trong ngôi nhà cổ sắp xiêu đổ ấy đâu ?). Má tôi cằn nhằn khi tiễn đôi vợ chồng hàng xóm ra cửa, "Mắc cái gì mà tụi bây giữ hoài cái nhà oan chướng đó, sao không bán đi cho rồi, cất nhà mới, sống cho bình thường như con người ta". Anh Tứ Hải không trả lời, chỉ nghe anh cười khà khà khà.

"Nhân Phủ" của anh cách nhà tôi một hàng rào cặm bằng cây bình bát, đó là ngôi nhà cũ kỹ, già nua nhất làng cổ Phương Điền. Nghe kể, ông Tổ nhà anh Tứ Hải đã đứng ở dưới cây dông nem trước nhà, bảo tốp thợ ông muốn làm một ngôi nhà đẹp nhất, rộng nhất xứ này, một ngôi nhà thật lớn cho tất cả con cháu ông khi sinh ra đều có chỗ cho mình. Ròng rã hơn ba mươi năm, những người thợ xứ Quảng đã làm nên một kiệt tác nhà rường Nam Bộ, nghiêm cẩn, công phu chạm trổ từng chi tiết nhỏ, từ cây cột cái tới ngạch cửa, từ những cánh cửa tới mấy cái bậc tam cấp lối vào… Nghe kể, khi làm "Nhân Phủ", người ta đã cúng đủ mười lễ, nên nó điềm nhiên đi qua hai cuộc chiến tranh mà không có một vết tích nào. Năm 1972, Mỹ Nguỵ cho bom đạn cày xới dữ dội vùng này, nhưng chỉ có quả bom rớt sau nhà, thành một cái ao bông súng.

"Nhân Phủ" được trao cho anh em Tứ Hải, Tứ Phương khi hai người mới mười tám, hai mươi tuổi. Lúc đó, nó đã khọm rọm, bệu bạo như răng người già. Hồi nhỏ, tôi ở "Nhân Phủ" còn nhiều hơn ở nhà, tính tình năng động, phá phách nên hợp anh em Tứ Hải hơn bà chị ruột, má rầy hoài, có lúc nghe má kêu Út Nhỏ ơi, tôi hộc tốc chạy chui rào qua đất nhà mới dạ. Nhờ vậy, tôi mới phát hiện bên anh Tứ Hải có nhiều cái lạ, về cười nắc nẻ với má tôi. Lồng bàn đan bằng tre đậy mâm cơm được lợp thêm một lớp vải, nếu không, trứng mọt trên trần nhà rắc xuống thức ăn như người ta rắc tiêu xay. Đít quần của anh em anh Tứ Hải mặt vải luôn luôn nhăn nhúm, trầy xước vì mấy bộ ván mọt gặm lởm chởm. Trời mát rượi, đi trong nhà mà phải chụp cái nón lá sùm sụp lên đầu, đề phòng ngói rớt. Mấy cây cột chạm rồng chạm phượng bị mối cắn bộng than, búng ngón tay nghe kêu bộp bộp. Còn trẻ, lại nghèo, anh Hải phải đi bán bánh bao dạo, nuôi em ăn học, nên điều mà họ có thể làm được là giữ cho đồ đạc trong ngôi nhà bóng như gương. Năm mười sáu tuổi, qua "Nhân Phủ" chơi, nhìn vào đó, tôi thấy cả đám mụn cám lấm tấm trên cánh mũi mình.

Năm tôi mười sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng thương chị Thể mất rồi. Chị Thể mồ côi, từ nhỏ về ở nhờ trong "Nhân Phủ", đẹp nết, đẹp người. Sinh thời, má anh Hải hay nắm tay trìu mến, "Má có hai thằng con trai, chừng nào lớn, bây chọn một đứa, làm con dâu má nghen". Chị Thể chỉ cười cười, không nói. Chị hiền, dịu dàng như chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần còn nhớ, huống chi ba người họ lớn lên cùng nhau… Nhưng nhường qua nhường lại hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày… Ông anh chẳng mua gì, nhưng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp giặt đồ, anh xách nước để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai người cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm ngây dại mùi lá dứa. Người em thức sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung những câu chẳng có nghĩa gì.

Nên chị Thể chọn ai tôi đều thương người còn lại. Ở ngoài cuộc, hai má con tôi phân tích kỷ lưỡng, tôi nói anh Phương đáng để thương, anh Phương cao ráo, thanh mảnh miệng nhỏ, mắt sâu, trán cao, ăn nói nhỏ nhẻ là người thông minh. Má nói thằng Hải mới tội nghiệp, tính tình hịch hạc, ruột để ngoài da mà nhiệt thành, lúc nào cũng xởi lởi thưa gởi nói cười với người trên trước. Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.

Tốt nghiệp trung học xong, anh Tứ Phương xung phong đi bộ đội. Anh đi mà không nói gì với chị Thể, tôi cứ nằng nặc đi theo hỏi tại sao, anh nói, "Thương anh Hai quá, Út Nhỏ à. Mười bốn tuổi ảnh đã thay cha mẹ nuôi anh, quán xuyến trong ngoài, học hành lỡ dỡ…". Tôi ờ há, ờ hen, hiểu rằng "Nhân Phủ" từ khi dựng lên luôn đủ chỗ cho hết thảy mọi người sinh ra ở đó, chỉ vì nặng lòng yêu thương mà anh phải ra đi. Hôm xe đưa quân chạy qua nhà, tôi khóc bù non bù nước, tội nghiệp Phương quá.

Anh Tứ Hải thấy vậy, tưởng đâu tôi đã để lòng yêu, nên coi tôi như em dâu anh vậy, như tôi là người của Nhân Phủ mất rồi. Mấy bữa chị Thể đi chợ, ở nhà kiếm không ra cái tô, cái dĩa anh Tứ Hải cũng chạy qua hỏi tôi. Mà ngộ, hỏi gì tôi cũng biết hết. Bữa Phương gởi thư về, anh Hải rủ tôi qua đọc. Từ đầu tới cuối Phương nhắc tới tôi chỉ một câu chín chữ, "Út Nhỏ có qua nhà mình xin giấm không (?!)", vậy mà anh Tứ Hải vẫn ân cần căn dặn, "Ráng chờ thằng Phương nghen, Út Nhỏ. Ba năm, tưởng dài mà mau lắm". Tôi mắc cười, nhưng giả đò quá hay, thắc thỏm than nhớ thương, cho anh yên tâm.

Ba năm, tưởng dài mà mau, Anh Tứ Hải cưới chị Thể, hai năm sinh hai đứa con gái. Anh Tứ Phương về, ngó chị Thể nuôi con gầy ngẳng, lặng lặng mà đau. Nhiều khi lỡ miệng kêu :

- Thể à…

Chị Thể nhỏ nhẻ cắt ngang :

- Chú Út hỏi chị chi đó ?

Anh Tứ Phương cười cười, ờ ờ, tính nói gì mà quên mất tiêu rồi. Nói gì bây giờ, cả cách xưng hô cũng vời vợi ngăn cách rồi. Má tôi nói (giọng như là cảnh cáo tôi vậy), thằng Tứ Phương khác thường, nó trầm tính, sâu sắc, người như vậy thương ai là thương tới chết mới thôi. Tôi rành sáu câu nên đâu có dại, nên nhiều bữa từ bên nhà ngó sang thấy chị Thể lúi cúi thổi lửa nấu cơm trong gian bếp là đà khói, tôi hỏi lòng, có thích vị trí của chị ấy không. Câu trả lời là không.

Rủi quá, ba mươi hai tuổi tôi vẫn chưa lấy được chồng, vẫn chưa yêu ai. Mỗi lần có anh chàng chạy lại coi mắt tôi là anh Tứ Hải buồn rượi, lo chắc tôi thôi chờ em anh rồi, chàng nọ dạt ra, anh sướng quá, cười mười bữa chưa thôi. Má tôi tức lắm, bảo, "Con Út Nhỏ chắc mắc nợ anh em thằng Tứ Hải. Để coi, thể nào mầy cũng ế chồng. Mà, bà ngờ ngợ, con nhỏ ngông này, có thương thằng Tứ Phương thiệt hôn ?". Tôi cười, "thiệt đâu mà thiệt, má coi, trên mặt con có vẽ chữ Phương nào không ?".

Đương nhiên là không rồi, tình nhân gì hai đứa tôi, tình nhân gì như tôi, ngồi uống rượu với người ta, nghe người ta than thở "anh quên không được chị Thể". Phương ra quân, xin được một chân bảo vệ cơ quan tòa án thành phố, buổi tối, anh phụ chạy bàn cho quán cà phê truớc cổng, anh nói, phải kiếm tiền để phụ giúp anh Hai sửa lại nhà. Một năm anh về Phương Điền chừng năm ba lần. "Nhân Phủ" sẽ xáo trộn đôi chút, anh Tứ Hải ghé quán chú Sồi mua rượu, đổ vô cái hủ đựng đầy nhóc xác trái nhàu, trái khế. Chị Thể mua thức ăn ngon hơn, nấu bữa cơm canh tươm tất hơn thường ngày. Mấy đứa nhỏ được chú Út giảng nghĩa những chữ ghi trên mấy tấm hoành phi kia. Hai chữ treo giữa nhà là "Vạn cổ phương", còn kia là "Ái sở thân", kia nữa là "Đức Lưu thiên cổ"… Hai đứa nhỏ ngẩn người ra, vỗ tay cười, chú Út nói sai bét, ba con nói chữ đó là "Anh hùng náo", chữ kia là "Bao Thanh Thiên", còn lưu thiên cổ gì đó, ba nói là "tứ tử đăng khoa" (toàn là tên mấy tuồng cải lương). Tứ Phương nghe, ôm cháu vô lòng, ngậm ngùi thương người vì anh mà chịu nhiều thua thiệt. Rồi chạng vạng, tôi qua, cả nhà mở tiệc. Trẻ con no bụng chạy đi mở ti vi coi, còn lại bốn người cùng nhau uống rượu tới khuya xa. Mà không, chỉ ba người uống, còn chị Thể thì ngồi lui ra sau chừng năm ba thước như xưa rày vẫn vậy (tôi ngờ rằng cũng ở vị trí đó, một hôm chị chọn được người trăm năm của mình), lặng lẽ, cười cười. Cũng cảnh này, người này nhưng trong lòng đã đánh mất sự bình yên, trong trẻo xưa rồi. Tôi nói, nghe bù xè nhai gỗ trèo trẹo buồn thiệt. Anh Tứ Hải bảo, ngói trên mái nhà lăn lóc cóc xuống máng xối kìa. Anh Tứ Phương chắc lưỡi, anh mới kiểm tra chừng một chục cây cột, thấy vậy chớ mấy cái ngàm mục hết rồi, chắc là không chịu được bao lâu nữa. Rồi nghĩ, mai mốt không còn căn nhà cũ kỷ này, biết lấy gì mà nói với nhau ?

Vì vậy mà phải giữ, quyết giữ nhà cho bằng được. Yêu và đau đã làm cho anh em họ nhọc nhằn ở bên nhau thì căn nhà cổ với những kỷ niệm ngọt ngào ngày thơ ấu níu lòng họ lại. Tôi mấy bận khổ lây, có bữa mưa gió lớn, bỏ nồi cơm nấu dỡ chạy qua, thấy anh Tứ Hải một tay vịn quần một tay chạy đi đốn cây chống đỡ, tôi nhào vô cùng chị Thể lấy dây chằng mấy cây cột cái. Rồi bưng thau đi hứng dột, rồi tiếp chị đùn mấy bọc nước trên nóc mùng. Lúc về tới nhà nhìn tôi loi ngoi ướt, má chép miệng, giọng như mỉa mai, như hờn tủi "Ông bà mình nói có sai đâu, con gái là con người ta …". Tôi cười, nhìn má, "trời ơi, má nói kỳ, hàng xóm với nhau, rảnh thì giúp", mà lạ, sao tôi nhìn thấy mình trong mắt má lại lủi thủi, đáng thương thế kia.

Không biết có phải vì vậy mà má tôi trở nên buồn bực. Có bữa đi dự đám cưới ở cuối xóm về, thấy tôi đang ngồi lặt bông so đũa, má cay đắng hỏi "mầy bây giờ già đầu rồi, còn ngóng ra cửa trông ai nữa ?". Đâu, tôi cãi lại, con ngó mấy cái bông mà. Rồi má thở dài, "Sao lóng rày, thằng Tứ Phương ít về…". "Kệ thằng chả, má ơi", tôi đáp, chợt nghĩ, ừ, thì cũng lâu rồi anh Tứ Phương không về. Những lần xe đò cho khách xuống "Nhân Phủ" trước thì nhặt, bây giờ thưa lắm. Có về, anh Tứ Phương cũng ở lại nhà chừng hai ngày rồi đi, anh nói với tôi, ở lại một bữa là lòng đau một bữa. Tôi gật gù, ờ, em hiểu chớ sao không. Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì. Tôi cố gắng đóng vai trò cô em gái nhỏ như lúc còn bò lủm đủm, anh bồng đi mua kẹo cho ăn, như lúc tám chín tuổi anh chặt giùm bó đũa chơi chuyền, như lúc mười bảy tuổi, hai anh em chở nhau ra chợ thị xã, chọn đẫm mồ hôi mới được cây kẹp tóc cho anh tặng người yêu…

Anh đi rồi, tôi nói với má, " Trời ơi, ngồi với thằng chả mỏi lưng quá, má coi, yêu đương chi cho mệt vậy không biết, bởi vậy, con đâu có thèm. Mà, sao ảnh không quên chị Thể phứt cho rồi, để con khỏi mắc công nghe than thở". Rồi nghĩ, mai mốt đi lấy chồng, ai ngồi chia thương sẻ nhớ với anh, hả Phương.

Lụi hụi rồi gió lại đổi mùa. Tôi gà gật ngồi cho con bé Tho giết trứng tóc. Nó kêu trời ơi, cô Út Nhỏ, cô có tóc bạc rồi nè. Chú Út con cũng có, nhiều lắm. Mà, chú Út con sắp cưới vợ rồi. Tôi hỏi, vậy hả, vậy hả, vậy sao. Dạ, con bé nhỏ nhẻ, con chưa biết mặt, con hỏi giống ai, chú nhìn vòng vòng một hồi, mới nói, cổ hơi giống má. Tôi bảo, ờ, giống má con cũng được, vừa đẹp vừa hiền. Rồi nghĩ, sao mình không có gì giống chị Thể hết vậy ta, tệ thiệt.

Nhưng giống mà làm gì ? Anh chị Tứ Hải qua nhà, cúi đầu chịu lỗi với má tôi, nói vì người của "Nhân Phủ" mà tôi phải chịu lỡ dỡ. Tôi cười nắc nẻ, cười ha ha ha, nói, "Em với anh Tứ Phương giả đò đó, tụi em đâu có tình cảm gì". Mà, dường như họ không tin, chị Thể nắm tay, nhìn tôi chua xót, còn anh Tứ Hải trầm ngâm ngậm một bụm khói thuốc, quay mặt thở dài. Nhìn thái độ anh chị vậy, tôi tính, điệu này chắc mình cũng phải buồn một chút. Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.

Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi.
2171




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Mã Tuấn


Tuấn, tên chữ là Long Môi, con một người lái buôn, phong thư đẹp đẽ, tính tình phóng khoáng, thích múa hát, thường theo bọn làm trò, lấy khăn buộc lên đầu, đẹp như con gái, nên lại có thêm tên hiệu là Tuấn Nhân.

Năm mười bốn tuổi được vào trường quận, nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nên nghỉ buôn, một hôm gọi sinh đến bảo:

- Mấy quyển sách này, đói không thể thổi cơm mà ăn, rét không thể may áo mà bận, sao bằng học buôn bán, nối lấy nghề cha còn hơn!

Thế là Mã tập nghề buôn, theo người ta ra biển đi buôn. Một hôm thuyền bị gió bão cuốn đi suốt mấy ngày đêm đến một nơi đô thị, người xứ này xấu như ma lem. Nhưng khi thấy Mã, họ lại cho là yêu quái, kêu rầm lên, kéo nhau bỏ chạy tán loạn.

Thoạt đầu trông thấy hình dạng của họ, Mã sợ lắm. Nhưng sau mới biết là họ sợ mình, bèn làm cứng, bắt nạt lại. Gặp họ đang ăn uống, liền sấn đến, họ sợ chạy trốn, thì ngồi vào ăn nốt những thức ăn còn lại.

Lần đầu tiến sâu vào mấy làng trong chân núi. Ở đây có một số người mặt mũi cũng hơi giống người thường nhưng quần áo rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghĩ dưới gốc cây, người làng không ai dám đi qua, chỉ đứng đàng xa mà ngó. Lâu lâu, biết Mã không phải giống ăn thịt người, mới mon men lại gần. Mã lân la hỏi chuyện, tiếng họ nói tuy khó nghe, nhưng cũng lõm bõm hiểu được một nữa.

Mã liền nói cho họ biết mình từ đâu tới, mấy người kia mừng, phô khắp với mọi người trong thôn rằng: "Khách không phải định đến đây cắn xé ai đâu!". Ấy vậy mà có một người xấu xí nhất vẫn đứng xa xa, rồi lập tức trốn mất, không dám tiến lên.

Bọn người dám đến gần Mã là những người mồm, miệng, tai mắt mọc đúng chỗ của nó, trông cũng hơi giống với người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời Mã ăn. Mã hỏi:

- Tại sao họ sợ tôi như vậy?

Bọn ấy trả lời:

- Trước thường nghe ông cha kể lại, cách phía Tây hai vạn ngàn dặm có nước Trung Quốc dân ở đó hình dạng kỳ quái. Nhưng chỉ nghe thế thôi. Bây giờ mới tin thật.

Mã hỏi:

- Sao các ông nghèo thế?

Đáp:

- Nước chúng tôi không trọng văn chương mà chỉ trọng dung mạo: Ai đẹp nhất thì làm thượng khanh, ai đẹp vừa thì làm quan cai trị các dân xã, hạng kém nữa cũng được ngồi trên yêu chuộng nên mới có lương bổng để nuôi vợ con. Còn bọn chúng tôi khi mới sinh ra, cha mẹ đều cho là xấu xa, phần nhiều đem vứt ra đường, trừ nhà nào hiếm hoi, không có con nối dõi, mới phải bất đắc dĩ mà nuôi vậy?

Hỏi:

- Nước này gọi là nước gì?

- Đại La Sát. Kinh thành ở phía Bắc, cách đây ba mươi dặm.

Mã nhờ dẫn đi xem cho biết. Hôm sau gà gáy đã trở dậy cùng đi, sáng ngày mới đến đô thành. Tường thành xây bằng một thứ đá đen như mực, lầu các cao gần trăm thước, nhưng ít có nhà lợp ngói, chỉ lấy đá đổ úp lên nóc, nhặt một mảnh đá vỡ, lấy móng tay cạo ra, thì không khác gì son tàu.

Lúc ăn, nhằm buổi tan chầu, có một vị quan lớn che lọng từ trong triều đi ra. Người làng trỏ bảo:

- Kia là quan Tướng Quốc.

Mã ngẩng lên trông, thấy hai tai quan Tướng Quốc đều mọc ngược trở lại, mũi ngài có ba lỗ, rèm mi rủ xuống che kín cả mặt như bức mành mành.

Kế đến mấy người cưỡi ngựa nối gót theo sau. Người làng lại nói:

- Đấy là các quan đại phu.

Rồi lần lượt chỉ khắp các mặt quan giới thiệu cho Mã coi: Ông nào ông nấy râu tóc lởm chởm, hình dạng quái dị. Kỳ nhất là hễ quan chức càng nhỏ thì mặt mũi càng đỡ xấu.

Một lúc Mã ra về, người đi đường trông thấy đổ xô mà chạy, ngã dúi vào nhau, như gặp quái vật. Người làng cố giải thích cho họ nghe, họ mới dám đứng lại, nhưng cũng chỉ đứng xa xa.

Từ bấy giờ, trong nước, từ lớn chí bé, ai cũng biết sơn thôn hiện có người quái ở. Thế là các quan khanh, quan đại phu muốn xem cho rộng tầm con mắt, tranh nhau sai người trong thôn mời Mã đến. Nhưng mỗi khi đến nhà nào, người canh cổng liền đóng ngay cổng lại, đàn ông đàn bà nấp trong cửa nhìn ra, thì thào bàn tán, đi suốt ngày không ai dám mời vào nhà. Người làng nói rằng:

- Ở đây có quan chấp kích đã được tiên vương sai sứ đi ngoại quốc, trông thấy người lạ cũng nhiều, hoặc giả ông ấy không sợ chăng?

Bèn cùng đến nhà chấp kích, quả thiên ông ta vui mừng, vái chào đón và tôn làm thượng khách. Mã ngắm nghía vị lão quan thấy tuổi trạc tám chín mươi, mắt lồi hẳn ra ngoài, râu ria tua tủa như lông nhím nói rằng:

- Kẻ hèn này lúc trẻ phụng mệnh vua đi sứ rất nhiều nước, duy có nước Trung Hoa là chưa đến bao giờ. Năm nay đã một trăm hai mươi tuổi, ai ngờ lại còn được trông thấy nhân vật thượng quốc thực là may mắn! Việc thế nào cũng phải tâu lên thiên tử mới được. Nhưng lão phu ẩn cư sơn dã, đã lâu không bước tới sân rồng, sáng mai xin vì ông đi một chuyến.

Liền sai mở tiệc, phân ngôi chủ khách mời ngồi, rượu được vài tuần, lão quan truyền đòi bọn nữ nhạc ra, tất cả tới hơn mười cô, thay đổi nhau múa hát, trông cô nào cũng xấu như quỷ dạ xoa, đầu bịt gấm trắng áo đỏ dài quét đất, giọng hát líu lường, không rõ ra câu gì, nhịp điệu thực là kỳ dị.

Chủ nhân ra vẻ vui thích lắm, hỏi rằng:

- Bên Trung Quốc các ông có đàn ca thế này không?

Thưa rằng: "Có!"

Lão quan xin Mã hát thử cho nghe, Mã bèn gõ vào bàn mà hát một bài, chủ nhân mừng, nói rằng:

- Lạ quá! Tiếng nghe như phượng hót rồng ngâm, lão phu quả thực chưa từng được nghe bao giờ.

Hôm sau lão quan vào triều tiến Mã lên quốc vương. Vương vui vẻ hạ chiếu vời. Có hai ba vị đại thần can rằng: Mã hình dạng quái dị e đức vua trông thấy sợ quá mà chết khiếp đi, có hại đến long thể chăng? Vua bèn thôi.

Lão quan về nói với Mã, có ý tiếc rẻ hộ chàng.

Ở nhà chấp kích được ít lâu, một hôm uống rượu say với chủ nhân, say, bèn rút kiếm đứng lên múa, lại lấy than bôi vào mặt, giả làm Trương Phi. Chủ nhân cho là đẹp, nói rằng:

- Xin khách cứ để nguyên bộ mặt Trương Phi như thế, ngày mai vào chào tể tướng, tất thế nào tể tướng cũng vui lòng dùng ngay, bổng lộc không lo gì thiếu.

Mã nói:

- Trời đất! Chỉ làm trò chơi chốc lát thì còn khả dĩ, chớ ai lại nhờ vào bộ mặt để cầu công danh bổng hậu bao giờ!

Chủ nhân nài mãi, Mã phải bằng lòng vậy. Rồi bèn truyền mở tiệc mời các quan đến uống rư
ợu, dặn Mã vẽ mặt để n gồi chờ đợi. Một chốc khách đến gọi Mã ra chào. Khách kinh ngạc nói:

- Ô hay! Quái lạ thực! Sao ngày trước xấu xí thế, mà bây giờ lại đẹp đẽ thế này?

Bèn kéo cùng ngồi uống rượu rất vui. Mã đứng lên uốn éo hát một bài theo điệu thợ cấy, cử tọa không ai là không mê thích. Hôm sau tranh nhau dâng sớ tiến cử Mã lên Hoàng đế, vua mừng lắm, sai mang cờ tiết ra triệu Mã vào triều bái yết, vua phán hỏi đạo trị an ở Trung Quốc thế nào, Mã trình bày cặn kẽ, được vua khen lắm, truyền bày yến tiệc ở Ly Cung, ban thưởng cho. Rượu đã say, vua phán hỏi:

- Nghe đồn khanh múa hát giỏi lắm, có thể cho quả nhân nghe một bài được không?

Mã lập tức đứng lên múa, cũng bắt trước lấy gấm trắng bịt đầu, hát theo điệu cò lả. Vua bằng lòng lắm, ngay ngày hôm ấy xuống chiếu phong cho làm Hạ đại phu, luôn luôn cho ngồi hầu yến, ân sủng đặc biệt.

Lâu dần các quan trong triều đều biết là Mã khoác bộ mặt giả, đi đến đâu cũng thấy người ta thì thầm bàn tán, không vồn vã thân mật như trước, Mã tự thấy mình cô lập, trong bụng áy náy không yên bèn dâng sớ xin về hưu, vua không nghe. Lại xin nghỉ dưỡng sức ít lâu, vua bằng lòng cho nghỉ ba tháng.

Mã liền lấy ngựa chở vàng về sơn thôn. Người trong thôn quỳ xuống mà đón. Mã lấy vàng lụa phân phát cho mấy người quen thân từ trước, tiếng reo mừng vang lên như sấm.

Lời bàn:

Bài văn này, đọc kỹ mới thấy rõ phần u mặc độc đáo của nó

Trang Tử nói: "Có người bệnh hủi kia nửa đêm sinh đặng đứa con. Bèn lật đật kiếm cho đặng lửa để xem, chỉ nơm nớp lo sợ nó không giống mình."

Ông lại bảo: "Đồng với ta, cho ta là phải, không đồng với ta, cho ta là quấy". Ôi, lẽ Thị Phi của con người ta chỉ có thế mà thôi ư!

"Họ Tử xa có con lợn nái sắc đen huyền, đẻ một lứa ba con, hai con đen huyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình, thì ghét bỏ, sau cắn chết, xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi". Tình sử Trung Hoa cũng có câu chuyện u mắc như sau: Có một chàng si tình, yêu một ý trung nhân một mắt. Ra đường anh ta nhìn đàn bà chung quanh, hết sức bất mãn tại sao họ lại có dư một con mắt!

Có thể nói, nếu muốn tóm tắt ý nghĩa sâu xa của bài văn nầy, ta có thể mượn lời của Maurice Maeterlinck mà rằng: "Trong nhà thương điên, dưới con mắt của các người điên, kẻ điên nhất phải chăng là ông giám đốc bệnh viện"

Phan Sào Nam bàn về quẻ Bác có viết rất đúng: Quẻ Bác là quẻ âm cực trưởng, dương cực tiêu. Âm là tiểu nhân, dương là quân tử. Ở thời buổi này, tiểu nhân đắc chí hoành hành, người quân tử không còn chỗ nào mà hành động được nữa, chỉ nên ẩn dật mà chờ thời, may ra mới khỏi bị bọn tiểu nhân hãm hại".

Đúng là tâm sự của những bậc "ấn quân tử" thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sở cuồng Tiếp Dư khuyên ngăn Khổng Tử: "Phụng ơi! Phụng ơi! Lúc đời vô đạo, sao không ở ẩn? Đức sao mà suy thế! Từ nay trở về trước thì không sao can được! Nhưng mà từ đây về sau, còn có thể tự hối lại được! Nên thôi đi! Nên thôi đi! Ngày nay mà đi làm chính trị, nguy lắm thay!"

Lão đánh cá quả có lý khi khuyên Khuất Nguyên: "Thánh nhân tùy thời mà không câu nệ việc gì. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục thêm một thể? Loài người say cả sao. Ông không biết ăn cả men húp cả bã cho say theo một thể? Việc gì mà phải phòng xa nghĩ sâu đến nỗi phải bị phóng khí?" Chính là chỗ mà Trang Tử đã nói: "Ôi! Hạng thật mê, suốt đời không tỉnh. Hạng thật ngu, suốt đời không khôn. Ba người cùng đi mà có một người mê, thì chỗ mình định nói còn có thể mong đạt tới được, là vì kẻ mê ít, mà người tỉnh nhiều. Nếu ba người cùng đi mà có tới hai người mê, thì chỗ mình định nói đến không thể mong đạt tới được là vì người mê nhiều mà người tỉnh ít. Nay cả thiên hạ đều mê, ta dù có muốn chỉ đường cũng không thể được. Chẳng cũng xót xa lắm sao!... Biết là sự không thể được mà vẫn cứ gượng làm (tri kỳ bất khả nhi vi chi) đó lại còn mê hơn thiên hạ nữa!"

Câu chuyện Mã Tuấn trên đây của Bồ Tùng Linh quả là một thứ trào lộng u mặc thượng thừa... Hay nhất là đoạn chót: "Mã Tuấn làm trò, bôi mặt giả làm Trương Phi... Bấy giờ lại được người nước La Sát quý mến và yêu cầu giữ luôn bộ mặt giả ấy. Nhờ vậy mà Mã được giàu sang vinh hiển. Nhưng sau dần, người ta biết rõ là Mã mang bộ mặt giả nên không còn thích nữa, cũng chẳng ai ưa gì những con người giả dối ấy". Mã Tuấn quả là người sáng suốt nên đã biết lo xa mà xin về hưu trước.
565




Thiên Thần


      nơi này mùa xuân đi qua rất chậm. Trên những thảm cỏ ướt tháng hai, từng bầy con gái nhảy múa và xe sợi, gom lại những chùm hoa đỏ rực rỡ để chờ ngày mang về nhà chồng. Tôi ngồi nhìn con suối vắt qua trước nhà, nhìn những trái mơ non lông trắng mượt trên những tàn cây trước cửa, thấy lòng nhẹ thoảng như một vệt gió.

      Mẹ tôi ngồi khâu lại cái túi nhỏ xíu, cho mấy đồng bạc trắng vào trong và bảo, mang về dưới thành phố, đi đường xa thì nhét vào túi áo túi quần, kẻo cảm lạnh. Tôi bảo, đến khi con lấy vợ, mẹ có làm túi bạc cho vợ con không? Mẹ tôi nhìn tôi, còn tùy con dâu đã. Tôi bảo, chắc chắn là đẹp rồi. Mẹ tôi bảo, đẹp chẳng để làm gì. Đàn bà thành phố như yêu tinh.

      Tôi nhìn đám con gái tóc dài xuống suối lạnh. Nắng bắt đầu tràn qua những ngọn đồi, bốc khói những đám sương ướt. Mẹ tôi nhìn theo, chép miệng, con gái xóm mình đẹp, nhưng toàn lấy mấy thằng nát rượu, phí thân.

      Tôi bảo, nếu con lấy một trong những đứa con gái dưới suối, mẹ ưng đứa nào? Mắt mẹ tôi sáng ngời: Con Phần. Nó đẹp nhất xóm. Mà đảm đang. Tôi lại bảo, mẹ có chắc là nó sẽ chịu ở nhà với mẹ không? Con xuống thành phố, chắc là sẽ có nhân tình, nhưng sẽ không bao giờ bỏ vợ. Mẹ tôi bảo, thằng mất dạy, làm đàn bà nhục vì có những thằng đàn ông tham dục. Tôi cười. Nắng lên cao, vời vợi những đỉnh đồi trước mặt. Đám con gái thôi xe sợi, líu ríu đi qua ngõ nhà. Mẹ tôi gọi: Phần. Phần vào nhà, chân trắng, lông mày cạo thành vệt như sợi chỉ, đẹp cổ điển. Tôi bất giác cười, nghĩ đến những cô nàng thoáng qua tại các trung tâm ngoại ngữ ban đêm, mắt mày xăm đậm kỹ lưỡng. Họ có vẻ đẹp sắc sảo của họ. Họ không bao giờ là Phần được. Tôi bảo, Phần mấy tuổi. Phần cười, em hai mươi. Hai mươi mà chưa lấy chồng sao? Phần lại cười, chẳng nói. Mẹ tôi ngừng khâu, nhìn Phần cười, làm con dâu tao đi cho xong, mày đẹp người. Đám con gái cười rinh rích. Tôi cũng cười. Tôi không thích Phần.

      Cái thung lũng này như một miền đất hứa, cứ vài năm lại nảy thêm một nóc nhà mới, chẳng biết từ đâu về và tuyệt nhiên không ai có ý định bỏ đi. Mỗi nhà một dân tộc, một tiếng nói khác nhau. Nhưng đều êm đềm cả. Những người đàn ông đi biền biệt. Năm thì mười họa mới về. Những người đàn bà thì chờ đợi.

      Mẹ tôi sống quanh năm trong mấy nếp nhà sàn không muộn phiền. Mẹ bảo, tôi là con trời nên đi đâu cũng được, mẹ cũng chẳng lo lắng, chẳng ngại sợ những mưu chước của người đời. Tôi nhớ những ngày nhỏ, mùa đông thường rất dài. Ngày đó mẹ vẫn thường bảo, một buổi tối trời mưa dông sấm sét, mẹ đi lên núi Tả Van lấy lá thuốc về đắp chân cho bà ngoại. Đi ngang gốc cây dẻ sồi lớn, bỗng có tiếng nổ đinh tai. Mẹ ngất lịm đi. Sáng sớm tỉnh dậy, mẹ thấy mình đang ngập chìm trong bùn đất và cây dẻ sồi ngã vật ngang con suối, thân hình nó vạm vỡ như người đàn ông cường tráng nhất làng. Mẹ lấy tay khoét những vuông bùn quanh mình để tự giải cứu. Khi bước lên khỏi đám bùn ấy mẹ thấy thân mình nặng trĩu, như vừa trải qua một cuộc giày vò kinh khủng, chính mẹ cũng không hiểu vì sao. Cái cảm giác như vừa bị ngã ngựa, vừa đau rát phía cửa mình, vừa bần thần hoan lạc. Trên đám bùn rộng chảy tràn con suối, có những vết chân vừa to vừa dài đi hun hút lên phía thượng nguồn. Mẹ định thần lại, mẹ ngồi trên thân cây dẻ sồi. Mẹ bảo, mỗi khi trời nổi cuộc ngông cuồng, sau mây mưa vần vũ là một thiên thần xuất hiện. Chân thiên thần vừa to vừa dài, người đến rồi đi không ai biết mặt. Nhưng đó là một khuôn mặt đẹp, đẹp hơn hoàng tử, đẹp hơn cả ông Hẳng Bồ Câu suốt ngày tập khí công trên đỉnh núi Tả Van...

      Những ngày sau, cuộc sống của mẹ cứ bấn loạn lên vì những thay đổi bất thường, những thay đổi khiến bà ngoại cũng không ngờ tới. Mẹ mới tuổi hai mươi, mẹ chẳng biết gì nhiều. Khi thiên hạ đồn ầm lên, đến tai bà ngoại thì cũng là lúc tôi gào khóc đòi nợ cuộc đời. Bà ngoại lịm đi, không nói được gì và cũng chẳng muốn nói gì. Rồi bà kiệt dần. Hồn bà bay khỏi mái nhà tranh khi mẹ đưa tôi ra suối gội sạch đám cứt trâu trên đầu đúng ngày đầy tháng.

      Suốt những ngày ấu thơ, tôi vẫn thường huênh hoang với đám bạn, tôi là con của thiên thần, sinh ra từ gốc cây dẻ sồi và tôi khỏe mạnh cũng bởi được thừa hưởng sức lực cường tráng từ mạch nguồn bí ẩn đó. Và cho đến tận năm mười bảy tuổi, tôi vẫn thích tin vào những câu chuyện của mẹ, câu chuyện bí ẩn về thân phận tôi trong cuộc đời này. Mẹ tôi bảo tôi, mấy hôm nữa đi rồi chừng nào về? Mày có ưng con Phần để tao qua bảo với nhà người ta. Tôi cười, tôi không thích Phần. Mẹ cũng chẳng ngăn cản tôi đi đâu. Mẹ sinh cho trời đất một đứa con ngang bướng. Và mẹ để tôi đi, say mê đi và rồi âm thầm trả giá. Lúc nào chán mỏi thì lại về với mẹ...

      ...Mười bảy tuổi. Tôi lộc ngộc như con gà chọi, mắt thao láo, mặt đỏ gấc nhìn cái mái tóc dài như một búi quả mây. Chị mười tám, bỏ trốn khỏi nhà chồng đã được năm năm. Thực lòng tôi không biết chị đến nhà tôi từ đâu, chỉ nghe mẹ kể nhà chị ở bản người Mông, bố chị là ông già bán than củi khô mỗi chợ phiên. Tôi không đánh dấu ngày chị về ở chung một gian bếp với mẹ tôi, chỉ thấy đã thành thân thuộc. Để về sau nhớ lại, tôi nhớ mãi cái sợi chỉ nhỏ mảnh căng trên đôi mắt chị, đẹp miệt mài.

      Mãi về sau tôi mới biết những bão dông của chị trong đêm tối tuổi mười ba. Chị nhớ rất rõ, đêm đó là hội trùm chăn, đám con gái như những búp xuân mưng mẩy mong ngóng được bắt trộm đem về làm vợ. Chị chẳng mong như vậy. Anh trai chị hùng hục lôi chị từ phòng trọ của trường nội trú lên lưng ngựa, bắt c
hị về nhà. Mẹ chị tự tay khâu váy đẹp, bắt chị mặc để đợi được bắt đi. Mẹ chị bảo, đàn bà học nhiều chỉ để cãi nhau. Cái đêm hôm ấy, trong bóng đuốc lấp loáng sáng, người ta đi chơi, người ta uống rượu rộn ràng. Mưa gió gọi nguồn bất chợt kéo nhau về. Mưa ầm ào, mưa rộn rã. Chị vân vê cuốn sổ tay mà thầy giáo chủ nhiệm dạy văn đẹp trai trao tặng. Cuốn sổ tay có vẽ bông hoa đỏ rực, màu hoa như màu môi. Thế rồi bất ngờ chị bị bịt kín chăn, bị vác trên vai, xuôi dốc rồi ngược dốc. Chị quẫy đạp. Chị quăng mình trong đám cỏ rậm. Chị nhìn thằng trai say rượu đang cầm khúc cây định bổ xuống thân mình. Chị hoảng sợ, cầm hòn đá quăng ngược trở lại. Thằng trai say rượu ôm mặt, khóc tu tu như một đứa trẻ con. Chị chạy ngược suối, chị tìm về đây và gục xuống cầu thang của mẹ tôi. Mười ba tuổi chị đã một đời làm vợ. Về sau bố chị cũng ghé tìm. Nhưng chị tránh mặt. Mẹ tôi cũng cho chị tránh mặt. Bố chị biết, nhưng chỉ thở dài. Ông âm thầm một đời, lên núi đốt than để kiếm tiền đền con gái cho người ta.

      Tôi nhìn chị quay tóc bên vại nước. Chị mười tám, người chị như con cá trắm. Chị thích vẽ những bông hoa màu môi đỏ rực, nghĩ nhiều đến những tháng ngày ngắn ngủi ở thị trấn với người thầy giáo đẹp trai. Tôi biết điều đó khi theo chị lên núi bẻ ngô. Chị luôn mang theo cuốn sổ bên mình. Tôi lén xem, tất cả các trang viết đều đã nhòe ướt, chắc có lẽ bởi nước mắt, nhưng sao bông hoa màu môi vẫn đỏ rực không thôi. Chị nhìn tôi với cái mặt ngơ ngáo màu gà chọi mà cười. Thế mà tôi vẫn cứ nhìn. Chị cột tóc lên cao, cái cổ trắng ngần, bầu ngực phập phồng thở. Rồi chị đi lên núi hái chè. Tôi ngồi trên thềm nhà, nhìn ra những cây mơ trụi lá ngoài vườn, nghĩ xa xôi mà không sao dứt khỏi trái lê màu trắng phập phồng phía trong ngực áo chị. Đêm đó tôi thao thức. Ngày hôm sau vẫn thao thức. Có cái gì đó đau tức, như muốn trào ra, vỡ ra từ phía dưới thân mình. Đêm ấy tôi giã từ mười bảy năm non trẻ.

      Mười tám tuổi. Tôi đếm kỹ tất cả số bạc trắng được cất giữ suốt từ ngày bà ngoại mười tám tuổi cho đến khi cây tùng thông trên mộ bà đã cao quá hai đầu người. Chúng khá nhiều và nặng. Mẹ tôi bảo, đem về thành phố mà ăn học thành tài.

      Cái đêm cuối cùng tôi ở lại nhà trước khi về thành phố. Tôi thực tâm không nhớ đêm đó có trăng hay không, nhưng hình như mới quá rằm. Chị bảo tôi, mai Toàn đi rồi, có thấy buồn, có thấy nhớ nhà không? Tôi chẳng buồn nói với chị nữa. Tôi chẳng buồn. Chỉ thấy nhớ cái mái nhà này, mảnh vườn này, nhớ mẹ và nhớ chị. Tôi đi lên núi chào ông bà ngoại. Núi đầy sương và cây lá thẫm sậm như những khối thạch đen óng mượt. Chị chạy theo tôi, bước chân chị thình thịch. Chúng tôi cùng chào ông bà ngoại và ngồi lại. Trong mùi cỏ già đơm hạt, mùi hoa dẻ xôn xao từ những suối khe, mùi những trái bồ kết rụng xào xạc trong đêm ngai ngái. Chị tựa vào vai tôi, tóc thơm mùi hoa dại, mắt khép như một vầng trăng kín. Chị bảo, ngày mai phía trước Toàn là cả một cuộc đời. Còn tôi mãi vẫn chỉ có bông hoa màu môi làm bạn. Tôi sẽ là một thứ ma khô. Tôi không nhìn chị, chỉ nhìn vào khoảng bóng tối trước mắt, nghe tiếng thầm thì của những bóng hoa rớt về đêm. Tôi nhìn mãi vào đó để rồi bất ngờ nhận ra những chiếc cúc áo của mình đã được cởi hết. Tay chị nhẹ lướt xuôi xuống. Những miền cỏ xanh mùa xuân dậy thì. Và những bí mật. Tôi ngã vật ra đám cỏ. Cái đôi tay, như thiên thần dịu nhẹ, nhịp nhàng. Phía trên người tôi là một bầu máu nóng ngập tràn. Tôi đi nhẹ nhàng trong giấc mơ không ngày tháng. Si mê, cuồng dại. Những vòng quay bất tận. Trên cỏ. Bất chợt như vần vũ. Bất chợt gió. Bất chợt mưa. Và lóe chớp. Giấc mơ trong thân thể tôi như dòng nước suối khe chảy vào vùng bất tận. Mình tôi giật mạnh, sức tôi trôi đi cùng với giấc mơ của người đàn ông mười tám tuổi. Tôi nằm vật ra, mặt ngửa lên trời. Trong mưa gió vẫn có một vì sao cháy trên bầu trời. Mưa tràn lên thân thể tôi và chị. Mát lịm. Chị hôn lên những hạt mưa. Rồi bất thần bỏ chạy. Một mình tôi nằm lại. Nằm tới khi trời sáng, mưa tạnh. Tôi mơ thấy vết chân mình to như vết chân thiên thần. Tôi khóc...

      ...Tôi thường gắn những kỳ nghỉ Tết và nghỉ phép luôn thể, về chơi với mẹ. Đêm cuối ở nhà với mẹ, tôi định hỏi chuyện về chị nhưng lại thôi. Đám con trai kéo đến, rủ đi đánh bữa rượu, mai thì biền biệt suốt cả năm mới về. Mẹ tôi bảo, mai tàu xe xa, đừng nên uống nhiều. Bạn bảo, uống chút nữa, cho say cho mê, không mai mốt lại quên đường về nhà. Uống rượu với thịt trâu khô, rượu thật đậm đà. Rồi đi trêu gái. Đi xa quá. Mà đường về chếnh choáng. Tôi đi liêng biêng trên những triền dốc cao. Mỗi thằng con trai lại tìm được một cái bếp đàn bà rồi chui vào ngủ lại. Còn tôi, tôi bị thành thị làm phai mùi mồ hôi, chẳng đứa con gái nào theo nữa. Tôi đi, một mình cũng đi. Có tiếng sáo thổi bài ca gì, thật chẳng nhớ. Và tiếng sáo ngưng. Và trên trán tôi là bàn tay con gái. Anh Toàn đã say rồi, ngồi đây lạnh là mai không đi về thành phố được đâu. Tiếng của Phần. Tôi như lịm đi. Phần bảo, mai anh về thành phố, chắc chẳng nhớ em đâu. Nhưng em thì nhớ anh. Tôi bảo, đàn ông ra thành phố dễ hư hỏng, Phần tin làm gì. Em sẽ ở lại với mẹ, lúc nào thích thì anh về cũng được. Tôi nhìn nước mắt Phần. Nước mắt đẹp. Nhưng tôi bỏ chạy. Phần ngồi phịch xuống cỏ, khóc dấm dứt. Suốt đêm đó quẩn trong thung lũng là tiếng sáo réo rắt. Mờ sáng hôm sau, tôi lách qua phên giậu của mẹ. Tôi đi...

      Tôi đi như tháng giêng mười tám tuổi...



Dương Bình Nguyên

78




Sau khi chết, hồn của lập trình viên bay lên trời, thiên thần đón tiếp phán:
- Sinh thời anh không gây nhiều tội lỗi, ơn trên cho phép anh được chọn vào thiên đường hoặc địa ngục vi tính. Anh này bảo thiên sứ cho xem thiên đường. Đó là một trung tâm vi tính hiện đại, toàn những máy đời mới nhất, hiện đại nhất, multimedia không chê vào đâu được, server thì khỏi bàn... nói chung đúng là thiên đường. Vị thánh tuyên bố:
- Nếu chọn thiên đường, anh sẽ là user ở đây. Anh chàng đã sướng mê đi rồi nhưng vẫn đề nghị thêm:
- Ngài hãy cho tôi xem địa ngục ra sao?
- Cũng chính là đây, chỉ có điều anh sẽ là người quản trị hệ thống.
1694




Chi lạ rứa, hẹn rồi không chịu tới
Anh chống tay vin mãi buổi chiều nghiêng
Chiếc áo trắng vừa may còn mới rợi
Cũng nhàu đi, lấm láp bụi ưu phiền.

Anh cứ sợ niềm mong kia sẽ mỏi
Mím đôi môi cố giữ xót xa lòng
Hoàng hôn xuống, đêm gần như mái tóc
Bên vỉa đường - thêm ánh mắt anh chong.

Và như thế là thư không người nhận
Người anh thương có lẽ đã dời lòng
Chân vừa bước ra khỏi chiều lỗi hẹn
Trên đường tình vang vọng nhịp long đong.
1286




Ngày hội, một tên nhà giàu cưỡi ngựa, muốn vào chỗ đám hội, nhưng sợ ngựa đi hoặc ai dắt mất ngựa. Hắn đến chỗ một bé trai khoảng mười hai, mười ba tuổi, bảo bé trông ngựa, rồi sẽ cho tiền. Bé hỏi:

- Ngựa của ông có đá người không?

- Nó dữ lắm đấy, người lạ đến gần là nó đá đấy,

- Thế nó có hay bỏ trốn không?

- Không bao giờ !

- Vậy thì cần gì phải trông nữa!...1188




Con gái thường nói không
Khi con trai nói có
Con gái thường nói khó
Khi con trai tới nhà

Con gái hay ăn quà
Khi ngồi trong lớp học
Con gái thường hay khóc
Khi nỗi buồn vu vơ

Sợ cánh buồm tuổi thơ
Bay vào trong sóng biếc
Rồi bồi hồi ngẩn tiếc
Một điều gì đã qua

Con gái ít nói ra
Điều riêng tư - kỷ niệm
Sợ con trai sẽ biết
Nói con gái mộng mơ .
813




Hai vợ chồng nọ cùng chết trong một tai nạn, hồn bay đến cửa Thiên đàng. Thánh Peter ra mở cửa và báo với họ:
- Cứ mỗi lần không chung thủy với bạn đời của mình, các con sẽ phải trả giá bằng một lần kim đâm. Sau khi bị đâm, bà vợ lấm lét che ba vết kim, quay lại hỏi Thánh Peter:
- Chồng con đâu rồi?
- Ông ta đang nằm trên... dàn máy may công nghiệp!
2186


Powered by Blogger.