Hai thằng điên đi săn. Đến bờ ao, thằng thứ nhất thấy một con vịt bay khá cao, bèn nói với thằng thứ nhì:

Mày dám đánh cá với tao không? Tao bắn trúng con vịt đó cho mày coi.

Thằng kia đáp:

Chịu. Mày bắn đi.

Thằng thứ nhất nổ súng. Con vịt rơi xuống. Thằng thứ nhì lắc đầu, chê:

Mày nói bắn giỏi chứ tao thấy con vịt đó mà rơi xuống cũng đủ giập mật chết rồi, cần gì đến viên đạn của mày.

2764




Một quan huyện ăn tiền rất bẫm, xử với dân lại rất tàn nhẫn. Có giấy đổi quan đi nơi khác. Đợi mãi, chẳng thấy ai thèm đến đưa tiễn cả, bà huyện gọi nha lại vào trách :

- Dân tình ở đây sao mà bạc thế. Quan phụ mẫu sắp đổi đi nơi khác mà chẳng thấy đứa nào tiễn chân cả !

Nha lại thưa :

- Bẩm bà lớn, cả hàng huyện đồ lễ tế tiễn quan rồi đó ạ !

Bà huyện mừng rỡ hỏi :

- Ôi, họ lễ gì thế các thầy !

Nha lại ân cần thưa :

- Bẩm... toàn gạo, muối !

1561




Người như thiên thần mỏng manh đôi cánh
Bay đi- ngang qua biển và trời xanh,
Vui cõi trần gian, sông dài trăm nhánh
Nhớ người thuở nào - lệ khóc long lanh?

Tóc sầu thuở nào (ta sợ) chia phôi,
Tóc mai sau (sẽ) sợi nhạt sợi nhòa?
Môi xinh tươi có héo hon nhòa nhạt?
Môi thoáng buồn - tưởng lòng anh vỡ nát!

Cơn mưa nào có dấu được mùa Xuân?
Cỏ xanh non hồn em bừng ngọn mượt
Em nhớ không - thời chúng ta mật ngọt?
Bao năm rộn rã bên nhau- Sớm chiều?

Tiếng mưa về khuấy đôïng nước hồ xưa,
Như dáng em mang trùng khơi sóng động
Em về -mắt long lanh - mặt hồ trong
Môi cười vui hẹn hò- ngọt hương nhớ?

Người có hình ai trong đêm mơ mới?
Làm sao giữ được người trong giấc mơ
Đêm về - sẽ ôm bàn tay oà khóc,
Mất thiên đàng mưa đẫm ướt những trang thư

Làm sao hiểu được trần gian nhiệm mầu?
Yêu- mầu nhiệm nào? - có mãi trong nhau?
Em cuộn bóng hình mình trang kinh thánh?
(Người ơi, Người ơi! Còn riêng nỗi sầu)
Em lạc trần gian- thiên thần cháy cánh?

945




Sau một ngày làm việc bình thường, nhà vật lý Sophie B. trở về nhà và gặp tai nạn giao thông. Cô bị thương nặng, phải chuyển vào phòng hồi sức cấp cứu. Sau này cô nhớ lại: "Đột nhiên, tôi nhìn thấy mình nằm dài trên giường cạnh bác sĩ và y tá. Lúc ấy, tôi đang ở trên cao, tựa lưng vào trần nhà. Tôi nhìn thấy cả bụi phía trên đèn chiếu".

Theo lời kể của Sohpie B., cô cảm thấy như bị rơi vào đường hầm tối đen và đầu bên kia chìm ngập trong luồng ánh sáng kỳ lạ sáng hơn ánh nắng nhưng không gây chói mắt. Thế rồi cô hồi tưởng cuộc sống đã qua, nhớ từng sự kiện nhỏ hoặc tưởng đã quên, nói chuyện với nhiều người rất thân quen... Sau đó, cô nghĩ đến con cái và mẹ đang bị bệnh nên quyết định nhập vào xác trở lại. Lúc ấy, cô cảm thấy đau khủng khiếp khắp toàn thân. Nhiều năm sau, Sophie B. chỉ dám kể lại lần xuất hồn ấy sau khi đã đọc được nhiều bài viết nói về hiện tượng này.

Các nhà tâm lý học và các bác sĩ gọi trạng thái xuất hồn của Sophie B. là kinh nghiệm cận kề cái chết. Theo một cuộc thăm dò của Viện Gallup, 15% dân Mỹ đã từng sống qua trạng thái này. Số người xuất hồn rồi quyết định quay trở lại thế giới loài người kể lại cảm giác có khác nhau nhưng vẫn còn nhiều điểm chung nhất.

Các nhà khoa học nghiên cứu về kinh nghiệm cận kề cái chết đã lập ra những diễn tiến tiêu biểu của hiện tượng này như sau: cảm thấy thoát ra khỏi cơ thể, đi qua một đường hầm hoặc nơi tăm tối, có cảm xúc mãnh liệt, nhận ra luồng ánh sáng huyền ảo hay giọng nói kiểu như "giờ của bạn chưa tới", gặp người quen hay tiên thánh, cảm thấy rất sáng suốt, hồi tưởng dòng đời diễn tiến nhanh, đạt đến mức giới hạn nào đó, quyết định quay trở lại cơ thể và cuối cùng nhập vào cơ thể.

Tùy theo người, chuyện kể về hiện tượng này có khác nhau về chi tiết. Trẻ con không gặp thần thánh gì ở cuối đường hầm mà thường gặp bạn bè, thầy cô, cha mẹ... Trong phần lớn trường hợp, người đã từng xuất hồn thường tỉnh dậy trong trạng thái khỏe khoắn, nhưng cũng có lúc hoảng sợ không rõ do nhìn thấy "hỏa ngục" hay cái chết. Muốn biết xem kinh nghiệm cận kề cái chết có xảy đến cho bất kỳ ai hay không, cần phải so sánh nhóm người suýt chết nhưng chưa trải qua hiện tượng này và nhóm người đã trải qua trong những điều kiện giống nhau giữa hai nhóm. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được giải quyết vì ít ai để tâm nghiên cứu.

Thông thường, người đã từng xuất hồn là bệnh nhân nằm trong phòng hồi sức cấp cứu hoặc phòng mổ nên các nhà khoa học nghĩ rằng có thể có một số loại dược phẩm tác động đến não gây nên hiện tượng này. Cho đến thập niên 1980, các bác sĩ thường sử dụng loại thuốc gây mê mạnh Kétamine để gây mê trẻ em, người bị bỏng khi cần cấp cứu. Kétamine sẽ khiến cho bệnh nhân cảm thấy tách rời khỏi cơ thể nên không cảm thấy đau khi chịu phẫu thuật. Khi nghiên cứu thêm về Kétamine, nhà tâm thần học Karl Jansen người Anh phát hiện Kétamine bám vào cơ quan thần kinh thụ cảm N-méthyl-Daspartate để ức chế và gây nên trạng thái như xuất hồn. Ngoài Kétamine, các nhà khoa học còn nghi ngờ các phân tử endorphine là nguyên nhân tạo cảm giác khoan khoái, khả năng hồi tưởng cùng lúc nhiều kỷ niệm đi kèm theo trạng thái xuất hồn. Nhà tâm thần học Meduna đã từng thí nghiệm cho nhiều người hít hỗn hợp khí oxy và carbonique. Trạng thái thiếu oxy hoặc hấp thu quá nhiều khí carbonique sẽ khiến cho một số người thấy đường hầm, ánh sáng, nhớ về kỷ niệm và cảm thấy thoát ly khỏi cơ thể. Hiện tượng này thường xảy ra nơi nạn nhân bị mất quá nhiều máu, người bị chết đuối ở phút lâm chung và người mắc chứng động kinh.

Ngay từ thập niên 1950, bác sĩ phẫu thuật thần kinh Wider Penfield đã từng thí nghiệm dùng điện cực kích thích thùy thái dương của một số bệnh nhân còn thức và họ đã cảm thấy như xuất hồn khỏi cơ thể. Ở Pháp, bác sĩ Patrick Chauvel ở Bệnh viện thần kinh Rennes đã định vị được một cụm neurone thần kinh giữ nhiệm vụ tạo ra trạng thái mơ nơi người mắc chứng động kinh, chỉ có điều người bị động kinh thường hoảng sợ, buồn rầu, cô độc trong khi người xuất hồn lại mang cảm giác an bình hơn.

Bác sĩ thần kinh Michael Persinger người Canada còn quan sát thấy người nào có thùy thái dương hoạt động không ổn định (có nghĩa là có khuynh hướng mắc chứng động kinh) lại dễ sống trong trạng thái xuất hồn hơn người khác và chấn thương não ít quan trọng đôi lúc cũng gây nên trạng thái xuất hồn. Để giải thích cảm giác bước vào đường hầm, nhìn thấy ánh sáng chói lòa nơi người đã xuất hồn, nhà tâm lý học Suzanne Blackmore người Anh cho đó là do hệ thống thị giác bị rối loạn, phát sinh từ tình trạng thiếu oxy hoặc rối loạn các chất hóa học trong hệ thần kinh. Lúc ấy, các giác quan (mắt, tai, mũi, da...) không còn thông tin được với vỏ não nên vỏ não tự phát ra nhận thức. Chính vì vậy, người xuất hồn nhận thấy luồng sáng mạnh và huyền bí khác với ánh sáng thông thường.

Như thế cho đến nay, phần lớn các đặc điểm của kinh nghiệm cận kề cái chết đã được giải thích rõ bằng luận chứng sinh lý học hợp lý. Dù vậy, những người đã từng xuất hồn khó chấp nhận các luận chứng này mà cứ tin rằng có thế giới bên kia, có thiên đàng, tiên Phật... Niềm tin của họ mãnh liệt đến nỗi sau khi từ cõi chết trở về, đột nhiên họ sống khác trước, sùng tín hơn, biết hy sinh hơn, nhân ái hơn và hầu như không còn sợ cái chết nữa.


user posted image

595




Thầy giáo giảng bài:

- Bất cứ sinh vật nào muốn tồn tại đều cần có dưỡng khí. Nếu không có dưỡng khí thì không có sự sống. Vậy mà thế kỷ gần đây loài người mới phát hiện ra điều này.

Một học sinh thắc mắc:

- Thưa thầy, thế trước khi phát hiện ra dưỡng khí, mọi sinh vật làm thế nào mà sống được??!

1181




Cha Sơn là một quân nhân thời chiến sau khi miền nam bị giải phóng Cha Sơn bị đi học tập cải tạo lúc đó sơn tròn 8 tuổi cái tuổi còn qua nhỏ để nhận thức nổi mất mát của gia đình sơn chỉ biết hỏi Mẹ là Cha đi đâu vậy cứ lần những câu hỏi thơ ngây đó đã vô tình làm cho Mẹ buồn và khóc rất nhiều nhưng chỉ 3 năm sau khi sơn tròn 12 tuổi thì đã nhận thức được và không còn hỏi nữa mà con phụ mẹ làm những thức ăn mà Cha sơn thích để theo mẹ vào trại cải tạo thăm cha cứ thế mỗi năm Sơn chỉ gặp cha được một hai lần vào mùa hè của năm 1980 là lần thăm cuối cuối của sơn gì ít lâu sau Mẹ và Sơn nhận được hung tin cha sơn bi bệnh mà chết mà bọn cai tù thiệt là ác ngay cả xác cũng không được nhận về chôn mà họ chi cuống vào bằng chiếc chiếu rồi đào đại một cái lổ rồi quăng cha sơn xuống nhưng quăng một xác chết của một loài thú hoang xong rồi phủng bằng mặt đất ít ngày sau khi mẹ sơn và sơn đến nơi mặt dù ngoài trời miền bắc giá lạnh của mùa đông
hai mẹ con van lạy bọn cai tù cho họ biết nơi chôn cha của sơn như họ như là loài quỹ không có linh hồn không lòng thương hại mặt cho Sơn và mẹ lạy lụt đến đâu họ cũng như không biết không hay cuối cùng có một người dân ở gần đó cảm thấy thương và đã chịu dẩn hai người đi thăm khi đến nơi chỉ thấy một bãi đất hoang không biết nơi chôn cha là đâu Me và Sơn đành thấp vài nén hương khấn lạy xong rồi về sau khi về đến nhà mẹ sơn vì đau buồn mà bệnh và gia đình sơn kinh tế bế tắc cũng nhờ Mẹ Sơn ngày thường buôn bán cũng để đành một ít và sơn buổi sáng đi học còn buổi chiều phải đi bán báo và giấy số để kiếm tiền trong khoãng thời gian 4 năm vừa nuôi mẹ bị bệnh vừa phải để dành tiền để thi vào đại học thời gian cũng mau quá mùa thi đã đến sơn nạp đơn để thi sơn ngày ngày vẫn ôn bài thi và đi bán báo đơi thông báo để vào trường thi thì hởi ơi thông gởi về nói là Sơn là con của ngụy quân nên không đủ tiêu chuẩn thi vào đại học thế là giấc mộng bị tan dở mẹ sơn biết được con mình thích học nên đã tìm cách cho con đi vượt biên để mong sao con mình tìm được tương lai tốt nhưng sơn không muốn đi vì sơn vốn thương mẹ và sơn cũng có người yêu nên sơn không muốn đi nhưng bao nhiêu lần khuyên của Lan người yêu của Sơn và Mẹ nên sơn quyết định ra đi ngày sơn đi trời u ám và sắm sét rất nhiều như báo một đềm hung nhưng đã đóng tiền rồi nên sơn ra đi khi thuyền của sơn vừa rời khỏi đất liền thì bị bọn công an biên phòng phát hiện họ rượt theo và nổ súng vào thuyền sơn tất cả mọi người hốt hoãng vì mạng thuyền trúng đạn và nước vào quá nhiều cuối cùng thuyền sơn đã chìm dần vào đái biển mang theo sơn và hơn 100 người khác trước khi chết sơn có nguyện rằng nếu trời có thương cho xác của sơn trôi về quê như lời nguyện xác của sơn theo sóng biển trôi vào đất liền và theo dòng nước về đến quê của sơn và đêm hôm đó Mẹ sơn đã được sơn báo mộng rằng " Mẹ ơi con lạnh quá mẹ ơi mẹ kêu người ra đâu sông đón con về " cùng lúc Lan cũng được sơn báo mộng " Lan anh đã chết rồi từ nay mẹ anh nhờ em châm sóc ngày mai đây người ta sẽ đưa anh về anh thiệt lạnh quá" như lời con kêu gọi người mẹ già xấu số lại phải mất đi một người con và vì đau khổ tột cùng bà đả chút hơi thở cuối cùng kể từ đó nhà của sơn người ta thường thấy có hai mẹ con của sơn trong đó con cân nhà thì lúc có đèn lúc không thĩnh thoãng người ta còn nghe thấy tiếng khóc nức nở của mẹ sơn nữa ai nấy trong xóm đều sợ mà dọn nhà đi duy nhất có nhà Lan là không sợ cha, mẹ của Lan còn động viên con làm bàn thờ cúng và vang váy từ đó họ không còn xuất hiện nữa.
594




Gió Mưa Đưa Đẩy Đôi Ta


     Mới 3 giờ chiều, Cương đã rời nhà máy trở về căn phòng nhỏ hẹp của mình ở tầng thượng chung cư X.

      Việc phá bỏ thông lệ này một cách đường đột không phải không có lý do: giám đốc nhà máy vừa kêu anh lên trao quyết định cho nghỉ hưu trước tuổi kèm theo hai ngàn đồng nhân dân tệ - tiền bồi dưỡng "về vườn” theo chính sách hiện hành.

      Cương mới 30 tuổi chưa vợ con, lại có thân hình lực lưỡng với bộ ngực vạm vỡ và cánh tay cuồn cuộn những bắp thịt. Việc nghỉ hưu non đối với một con người đang tràn trề sinh lực thế này, thoạt nghe như nghịch lý mà lại rất hợp lý, vì nhà máy sắp công bố phá sản. Là người quen sống "ngủ giường cá nhân, ăn bếp tập thể", nên khi cầm trên tay quyết định nghỉ hưu, Cương cảm thấy hụt hẫng, chới với như sắp rời mặt đất bay lên vũ trụ!

      Sau khi tắm táp qua loa, chàng trai mở tủ lấy áo “chim cò” ra mặc, rồi ra phố ăn cơm tiệm, mở đầu cuộc sống đụng đâu ăn đó. Đi được một quãng đường, Cương thấy bên trái nhà hàng Hướng Dương có một tiệm mì đang bốc hơi nghi ngút. Anh quyết định đến đó, và rất may, quán này đang vắng khách, chỉ có mỗi ông chủ béo lùn, vừa xỉa răng ngó mông ra ngoài, vừa nựng đứa bé đang ngủ trên tay. Vừa thấy chàng trai xuất hiện trong bộ áo “chim cò”, ông chủ quán liền phun cây tăm đang ngậm, rồi cười toe toét:

      - Cậu đó hả?

      - Ông quen tôi? - Cương ngơ ngác hỏi.

      - Quen! Hồi sáng, cậu vô đây ăn mì, rồi thừa lúc tôi sơ ý, bỏ lại thằng nhóc này trên ghế. Cậu nhận nó, rồi cút ngay cho tôi nhờ!

      - Ông nói cái gì? - Cương la toáng lên - Ông nên nhớ, đây là lần đầu tiên tôi đến quán này, và cũng là lần đầu thấy được cái bản mặt đầy mỡ của ông. Ông không được ăn nói hàm hồ!

      Cơn giận nổi lên khiến mặt Cương đỏ rựng lên như mặt Quan Công. Anh quắc mắt nhìn chủ quán một lần nữa, rồi hùng hổ đi ra cửa. Ngay lúc đó, ông ta lạch bạch bám theo Cương, vừa nắm tay lôi anh lại, vừa cười giả lả:

      - Xin cậu bớt nóng! Tôi trông gà hóa cuốc. Tôi có lỗi! Mà lỗi này cũng... do cậu một phần!

      - Ông nói sao? Do tôi?

      - Không! Do cái áo "chim cò" của cậu. Mà thôi, cậu đừng giận nữa, tôi năn nỉ cậu đấy!

      Chủ quán lại cười khẹc khẹc, rồi hun cái "chụt" lên tay áo chàng trai với hy vọng làm lành, và quả đúng như vậy, cách làm này tỏ ra có hiệu lực. Cương đã chịu ngồi xuống ghế, đưa tay đánh tróc một cái, rồi ra lệnh dõng dạc:

      - Một tô lớn, có chất lượng!

      - Có ngay!

      Chủ quán trở lại bếp, nhưng chưa làm gì đã quay lại, đứng bên cạnh chàng trai:

      - Bị vướng thằng nhỏ, tôi không làm ăn gì được! Xin cậu giữ nó giùm tôi một chút!

      Thằng nhỏ có hình hài và gương mặt rất dễ thương. Trong giấc ngủ say nồng, đôi mắt nó híp lại như hai lằn chỉ, còn đôi môi đỏ mọng lại hé mở nụ cười. Cương bế nó lên tay, nghe hơi thở đều đều và nhẹ tênh như làn hương của hoa đồng cỏ nội, anh cảm thấy thư thái, dễ chịu.

      Chủ quán đã đặt lên bàn tô mì bốc hơi nghi ngút, rồi nhận lại từ tay Cương đứa bé đang ngủ say. Ông ta nói làu bàu trong miệng:

      - Từ sáng tới giờ, một thân một mình, tôi vừa bán mì, vừa phải bế thằng nhỏ. Tôi đuối sức lắm! Đợi tới chiều, nếu không có ai đến nhận, chắc là phải bỏ nó ra đường!

      - Ông nói cái gì? - Cương gõ mạnh thìa xuống mặt bàn - Tuyết đang phủ dày thế này, ông tính cho nó chết hay sao?

      - Không làm vậy thì biết làm gì bây giờ - Mặt chủ quán nhăn nhúm, méo xẹo như cái bị rách - Tôi đã nghĩ hết cách rồi!

      Chàng trai ném thìa, vụt đứng dạy:

      - Sao lại hết? Ông phải nuôi, chẳng phải ông vừa nói, ông ở một thân một mình là gì?

      - Đúng là tôi ở đây một mình, nhưng tôi còn phải nuôi bà lớn, bà nhỏ và 6 đứa con ở dưới quê! Tôi mỏi mệt lắm rồi, cậu đâu có biết!

      Cương cảm thấy đắng miệng, không thể nào nuốt hết tô mì, mặc dù bụng hãy còn đói. Anh đưa tay lên chống cằm, rồi nhìn tuyết trắng đang phủ đầy đường: "Không khéo đêm nay thằng nhỏ này lại lâm vào tình cảnh của mình 30 năm trước”. Anh nhớ lại, hồi đó, vừa được hai tháng tuổi, anh đã bị vứt ra đường giữa mùa đông lạnh giá. Theo bà tốt bụng đã cứu anh kể lại, khi lôi anh ra khỏi đống tuyết, người anh đã thâm tím và cứng đờ như con cá ướp đá. Vậy mà như cây tùng, cây bách của quê hương, anh đã sống, đã đứng dậy được trong vòng tay ấm áp của hàng xóm láng giềng. Cho đến bây giờ, anh vẫn là một đứa con không cha, không mẹ, một đứa con hoang.

      Chàng trai rút khăn lau miệng, lấy tiền đặt dưới tô mì; rồi vụt đứng dậy, chìa hai tay ra trước mặt chủ quán:

      - Ông trao nó cho tôi! Ông không dám nuôi, thì tôi nuôi nó vậy!

      Đứa bé được nằm gọn trong vòng tay của Cương, và lạ thật, tuy đã tỉnh giấc, đã mở mắt nhìn anh thao láo, nhưng nó không khóc. Trời đã tối hẳn, cái lạnh của đêm đông bắt đầu ngấm vào da thịt. Bất chấp tất cả, Cương bế thằng nhỏ lao nhanh ra đường đang phủ đầy tuyết trắng.

      Sáng sớm hôm sau, Cương lấy chăn, gối che chắn cẩn thận, đặt thằng nhỏ nằm lọt thỏm giữa giường, rồi vụt chạy ra phố mua về sữa bột, phích nước, tã lót, tấm đắp, dầu cù là và một số thuốc cần dùng cho nó. Công việc phục vụ đứa bé cứ xoay mòng mòng như chong chóng, đôi lúc cảm thấy đuối sức, nhưng Cương rất vui, vì dẫu sao sau khi nghỉ hưu, anh cũng có công việc để làm, hơn là nằm sóng sượt trên giường, vừa vắt tay lên trán, vừa thở vắn than dài... Thằng nhỏ coi bộ thích anh và dễ nuôi. Bao nhiêu sữa cho vào mồm, nó đều nuốt sạch, hầu như không biết chán. Xét về mặt tham ăn, nó giống hệt Cương lúc còn nh72




Cô gái trẻ rụt rè đọc cho anh nhân viên bưu điện ghi nội dung bức điện cần chuyển đi.
- Chỉ có một từ "vâng" thôi sao?
- Anh này ngạc nhiên hỏi.
- Vâng!
- Mức phí tối thiểu cho phép cô gửi đi 7 chữ cơ đấy!
- Dạ, nhưng gửi tới 7 chữ "vâng" thì anh ấy đoán được tâm trạng của em mất!
2317




Một kẻ hành khất kể với người cùng cảnh:

- Này cậu, hôm trước tớ nhặt được một cái ví ở bãi để xe, có 5000F nhé.

- Thế cậu làm thế nào?

- Danh thiếp chủ nhân của nó vẫn còn trong ví. Không chần chừ, tớ gửi ngay cho hắn một phiếu chuyển tiền 500F để cảm ơn!


o O o


Hai kẻ lang thang nói chuyện với nhau. Một người hỏi:

- Mày sẽ làm gì nếu mày là tỷ phú?

- Tao à! Tao sẽ cho đặt những chiếc gối trên tất cả các ghế đá công cộng!1962




Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Ngũ Liễu Tiên Sinh


Ông không rõ người ở đâu, tên họ gì, bên nhà có trồng năm cây liễu, nhân đó mà đặt tên.

Ông nhàn tĩnh, ít nói, không ham danh lợi. Tính ham đọc sách, lại không cần thâm cứu chi tiết, mỗi lần hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn. Tính thích rượu, nhưng nhà nghèo, không có được thường. Người thân cận cố cựu biết vậy, có khi bày rượu mời, ông lại uống hết, đến say mới thôi. Say rồi thì về, không lưu luyến gì cả.

Tường vách tiêu điều, không đủ che mưa nắng, bận áo vải thô vá, bầu giỏ thường trống không mà vẫn vui.

Ông thường làm ăn để tiêu khiển và tỏ chí mình. Đắc thất không màng, cứ vậy trọn đời.

Khen rằng: "Kiềm Lâu nói: Không đau đáu lo cảnh nghèo hèn, không vội vàng mưu cảnh giàu sang".

Lời nói ấy trỏ vào hạng người như này chăng?

Lời bàn

Lối văn u mặc của Đào Tiềm nhẹ nhàng hơn của Lưu Linh, nhưng đều cùng một mùi vị hư vô siêu thoát

Bài văn của Đào Tiềm có nhiều đoạn rất hay... "Ông, không rõ là người ở đâu, tên họ gì..." Những ai đã hiểu Thiền, đọc lên sẽ thấy thú vị vô cùng. Trong khi thiên hạ đua nhau tìm cách "lưu danh hậu thế" đánh trống thổi kèn để cho khắp thiên hạ được biết đến cái tên nhỏ bé của mình thì Đào Tiềm cũng như Bạch Cư Di khởi đầu nói đến một thứ con người "vô danh": Túy Ngâm tiên sinh và Ngũ Liễu tiên sinh

Đào Tiềm hiểu rất rõ những tâm sự của những con người háo danh trục lợi, họ nói rất hăng, họ nói rất nhiều... nếu không phải vì háo danh thì chắc chắn không còn cái gì thúc đẩy con người ham nói cả. Cho nên Ngũ Liễu tiên sinh là người "ít nói", và dĩ nhiên bởi ông là người "không ham danh lợi". Chỉ có một câu mà nói lên được tất cả nhân quả của cái trò hề bản gã (comédie du moi)

Lối đọc sách của Ngũ Liễu tiên sinh cũng khác đời. Người đời đọc sách thì đi moi móc từng chữ một, chết trong văn từ chi tiết, lặn hụp trong hình thức, chi ly phân tích. Ngũ Liễu tiên sinh đọc sách "không cần thâm cứu chi tiết, mỗi khi hội ý điều gì thì vui vẻ quên ăn". Đọc sách mà được như thế là nhập thầnÔng

Giàu nghèo bất kể, đắc thất không màng. Ngụ Liễu tiên sinh quả là người cách xa thiên hạ: Một con người Tự Do

Nếu trong hàng đệ tử Khổng Tử hỏi Ngài về cái con người quái dị này là hạng người thế nào, chắc chắn Khổng Tử sẽ bảo: "Người mà làm gì hiểu nổi. Hỏi Hồi, may ra nó mới có thể nói cho mà nghe!
562




Ðàn én bốn phương bay về, đem lại cho trần gian tin xuân vui đầm ấm. Ánh triều dương sắc vàng rực rỡ, lần lần lan rộng, phá tan màu khói sương vẩn màu sửa đục của buổi bình minh. Ðôi hàng cây bên vệ đường đã trút sạch lớp áo vàng để thay vào những mầm non mập mạnh. Ngọn gió đông dịu mát đầy sinh khí, nhẹ nhàng thổi lướt trên đám cỏ xanh. Thành Thất La Phiệt vào buổi mai, âm thanh tràn ngập vẻ thanh hòa đáng mến.

Phút chốc vầng hồng đã lên cao.

Trên con đường lớn quanh co hướng dẫn vào thành, một đoàn Sa môn có hơn nghìn người, đi nối tiếp nhau như con rồng lượn khúc. Các Tăng sĩ, vị nào cũng có vẻ điềm tĩnh đoan trang, nhìn xuống lặng lẽ bước, dáng đi xem tự tại thoát trần. Dẫn đầu là một bực Tôn túc, thân xác vàng ánh, tướng tốt trang nghiêm, đi chậm rãi oai nghi như voi chúa. Sau đấng ấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi ôm bát theo hầu. Ðấy là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng thị giả A Nan và chư Tăng vào thành khất thực. Bấy giờ, những người có lòng tin ngôi Tam Bảo, muốn gieo trồng giống phước, đem thức ngon vật lạ cúng dường Phật và chúng Tăng. Lại có kẻ không dâng cúng, nhưng thấy dáng điệu trang nghiêm siêu thoát của đấng Ðiều Ngự và các Ðại Ðức Tỳ kheo, cũng họp nhau đứng nơi cửa trông ra, hoặc đứng bên đường để nhìn ngắm.

Từ nơi cửa sổ trên lầu cao, nàng Ma Ðăng Dà một bậc tài sắc trong thành Thất La Phiệt, nghe tiếng động, khẽ vén bức màn thêu, đưa mặt nhìn xuống. Nhưng sống với hương tình vị ái của tuổi xuân, nàng làm sao nhận thức được sự giải thoát đức thanh cao nơi các nhà tu sĩ. Trông qua lớp áo hoại sắc của những vị Sa môn, nhìn lại y phục sa hoa lộng lẫy nơi thân mình, nàng tự thấy phong lưu sang trọng. Rồi kêu hãnh, nàng điểm trên môi một nụ cười. Nhưng bỗng ngạc nhiên, Ma Ðăng Dà chăm chú nhìn vị Tỳ kheo trẻ tuổi đứng hầu sau Ðức Phật. Ôi! giữa trần gian này sao lại có trang nam nhân đẹp đến thế? Nàng tự nghĩ thầm nếu được cùng người này chung hưởng được trăm năm, dù phải nghèo nàn, khổ nhọc, ta cũng ưng lòng, không còn ước mong gì hơn nữa! Mắt vẫn nhìn, trí mãi suy nghĩ, Ðức Phật và chư Tăng đi khuất từ lúc nào, nàng Ma Ðăng Dà còn ngồi ngơ ngẩn dường như không hay. Ðến chừng định thần lại, nhìn ra khoảng đường vắng vẻ, nàng buông một hơi thở dài, trên mặt lộ đầy vẻ bâng khuâng nhớ tiếc...

Không rõ A Nan xinh đẹp thế nào, mà Ðức Phật không cho ông mặc áo trần vai, vì sợ hàng phụ nữ trông thấy động tình. Và Ngài Văn Thù Bồ Tát từng khen tặng ông rằng: "Mặt như vầng nguyệt sáng, mắt tợ cánh sen tươi". Thế thì cô mỹ nữ kia yêu mến ông, điều ấy cũng không lấy chi làm lạ.

Nàng Ma Ðăng Dà từ khi trông thấy A Nan mối tình si dường như vấn vương khó dứt. Mỗi ngày, nàng thường lên lầu, trông ra cửa sổ, chờ chư Tăng đi khất thực, mong sao cho được thấy mặt người yêu. Sống trong tình khát ái khó tỏ nỗi lòng, Ma Ðăng Dà tâm thần ngơ ngẩn, quên ăn uống, biếng nói cười, gương mặt xinh tươi lần lần hóa ra tiều tụy. Thân mẫu nàng thấy con có những trạng thái bất thường như thế, sinh nghi đôi ba phen gạn hỏi. Không thể che giấu, nàng phải đem sự thật tỏ bày và van xin mẹ làm thế nào cho mình khỏi thất vọng. Nghe xong, mẹ nàng lộ vẻ ngậm ngùi bảo: "Con ơi! Ðiều con muốn khó thể thực hiện được. A Nan là người hầu cận thân tín của ông Cù Ðàm ông ấy và những Sa môn đệ tử của ông có nhiều phép thần thông kỳ diệu. Những bậc cao đức trong hàng lục sư còn phải nhường họ, thì mẹ đâu có tài gì làm thỏa nguyện cho con. Hơn nữa, A Nan là người thuộc dòng tôn quý, con của ông Hộc Phạn Vương, nếu không xuất gia, có lẽ y thay thế cho thái tử Tất Ðạt Ða là vua trong một nước, mẹ con ta là phận thấp đâu mong gì sánh được với người. Thôi con hãy xóa bỏ những ý nghĩ ấy và khuây khỏa nỗi sầu khổ để cho mẹ vui lòng. Mất A Nan này sẽ có A Nan khác, trong bốn phương thiên hạ lẽ không tìm được một người đẹp như thế hay sao?". Nghe mẹ nói, tuy lặng yên không đáp, song nàng Ma Ðăng Dà thật trăm phần đau đớn. Trước kia, một tia hy vọng lập loè trong trí, nay hiểu qua mọi nổi khó khăn, nàng tự cảm thấy như rơi vào cõi âm u ghê sợ.

Tâm tư tràn ngập nổi buồn thương thất vọng, nàng thầm than: "Thôi, thế là hết! Ðời ta đã đến giai đoạn kết cuộc từ hôm nay..."

Thế là bệnh của Ma Ðăng Dà mỗi ngày một nặng. Trong cơn mơ thấy A Nan đi đến, nàng vô cùng mừng rỡ, vội chạy đến choàng vai, nhưng vị Tỳ kheo trẻ tuổi nhẹ nhàng thoát khỏi tay nàng rồi biến mất; nàng cất tiếng khóc to lên thì vừa thức giấc... Thân mẫu nàng thấy con khi mê khi tỉnh, thoạt khóc thoạt cười, lấy làm buồn rầu lo lắng, một mặt khuyên dỗ, một mặt chạy chữa đủ thứ thuốc thang, song vẫn không hiệu quả.

Một buổi sáng tà dương đang tiết trời dìu dịu, gió bên ngoài nhẹ thổi động bức rèm thêu đùa không khí trong mát vào phòng; cơn sốt như được giảm bớt, Ma Ðăng Dà lặng lẽ thức tỉnh. Nhìn lạy thân hình vỏ vàng gầy héo, lộ vẻ chua cay, nàng nhẹ nhếch một nụ cười. Nhưng vừa khi ấy nàng bỗng ngạc nhiên, vì nhận thấy hôm nay trong phòng trang hoàng rất sạch sẽ. Ðối diện nàng bức họa: "Vườn xuân dưới nắng mai" được treo lên với vẻ mỹ thuật. Và, chiếc lọ thủy tinh cắm đầy hoa tươi, ai đã đem đến đây để ngay ngắn giữa mặt bàn như tấm thảm màu xanh da tươi. Ðể ý trông qua khe cửa, Ma Ðăng Dà thấy mẹ đang ngồi tiếp chuyện với một vị đạo sĩ râu tóc bạc phơ, vầng trán sáng suốt, nét mặt trầm ngâm. Hai người nói gì nàng không nghe rõ, nhưng hình như xem mẹ nàng có vẻ chú trọng lắm, Ma Ðăng Dà chưa hiểu, còn đang nằm yên suy nghĩ, thì nghe có tiếng giày của mẹ đi nhẹ vào phòng. Nàng nhắm mắt giả vờ như không hay biết, tiếng giày đi lại bên giường chợt im bặt hồi lâu, thốt nhiên nàng cảm thấy bàn tay từ mẫu đặt lên trán mình và tiếp theo đấy, nối liền một giọng đều đều êm dịu: "Con ơi! Chớ nên buồn rầu! Con là lẽ sống duy nhất của mẹ; với lòng quý mến con, mẹ có thể hy sinh tất cả hạnh phúc trên đời. Vì thế vừa rồi mẹ có mời được một đạo sĩ danh tiếng, ông đã truyền cho mẹ bài mật ngữ "Ta Tì La Phạm Thiên chú". Theo lời ông mật ngữ có năng lực mê hoặc người, dù người ấy đạo hạnh đã đến mức cao siêu. Nếu học thuộc thần chú này, con có thể thực hiện nguyện vọng của mình bằng cách mê hoặc A Nan, khiến cho y mất sức tự chủ và hoàn toàn bị sai sử tùy theo ý con muốn". Máu nóng chảy rần rật trong huyết quản, Ma Ðăng Dà như cảm thấy có một nguồn sinh lực mầu nhiệm làm cho nàng mạnh mẽ hơn hồi chưa bệnh, sau khi nghe được mấy lời ấy; gương mặt tươi tỉnh hẳn lên, nàng nói với giọng run run vì sung sướng, cảm động: "Thật thế hở mẹ? Nếu vậy bệnh con sẽ lành và con không còn lo buồn gì nữa!". Rồi nàng trỗi dậy gọn gàng như người vô sự.

Nửa tháng sau, khi sức khẻo gần bình phục, Ma Ðăng Dà đã thuộc làu làu bài mật ngữ. Nàng còn chờ một thời gian ngắn cho trong người thật mạnh sẽ thi hành ý nguyện, lòng chứa chan hy vọng, tin chắc thế nào mình cũng đắc thắng bằng hai lợi khí: nhan sắc và thần chú nhiệm mầu. Rồi, một buổi sớm mai, nàng trang sức rất đẹp, sắm sẵn những thức cúng dường để gợi ý trung nhân. Nhưng bóng ác càng cao, Ma Ðăng Dà càng nhìn trông mỏi mắt và cuối cùng phải thất vọng, vì đã quá ngọ mà vẫn vắng bóng hành khất của chư Tăng. Hoài công chờ đón như thế đến bốn năm hôm, hỏi ra nàng mới biết lúc này vào đầu mùa mưa, chư Tăng theo lệ thường mỗi năm phải ăn cư một chỗ trong vòng ba tháng. Nghe được tin ấy, nàng âu sầu khổ não, song cũng phải dằn lòng đợi dịp, không biết phải làm thế nào.

Lá tươi rồi héo, hoa nở rồi tàn, cảnh vật âm thầm biến chuyển mau lẹ theo cánh thời gian, thấm thoát đã đến ngày chư Tăng mãn hạ. Ðối với nàng Ma Ðăng Dà, ba tháng thật là mấy năm trường đằng đẳng! Nhưng việc sẽ đến tất phải đến, hôm nay nàng sẽ cảm thấy sống dậy một mùa xuân tươi đẹp mùa xuân ở cõi lòng. Từ sáng sớm, những thức cúng dường đã được sắp đặt đâu vào đấy. Công việc xong xuôi, Ma Ðăng Dà đến trước gương trang điểm, vừa đọc nhẩm mấy câu Phạm chú. Vẻ vui tươi đắc ý hiện rõ trên mặt nàng. Giai nhân lồng bóng trong gương, hai dáng xinh đẹp in nhau, phưởng phất như cành hoa Tịnh Ðế. Khi ánh nắng mai chiếu vào song cửa, trên con đường vào thành, hình dáng của đoàn Sa Môn đi khất thực lần lần lộ rõ và cũng lại gần, Ma Ðăng Dà vô cùng mừng rỡ, định thỉnh riêng ông A Nan đến trước nhà để tiện bề dùng huyển thuật. Nhưng lần này nàng rất ngạc nhiên, vì không thấy vị Tỳ kheo trẻ tuổi theo hầu Ðức Phật. Thêm một điều lạ: chư Tăng cùng đi thẳng, không dừng lại từng nhà để thọ cúng như mọi khi. Ma Ðăng Dà để ý nhìn từng vị Sa Môn lần lượt đi qua, nhưng cũng không thấy người mình muốn gặp. Mỗi nỗi buồn vô tả xâm chiếm tâm nàng, khi vị Sa Môn cuối cùng vừa đi khuất. Nàng để rơi mình xuống ghế, hai tay bưng mặt, choáng váng cả tâm thần. Không biết ngồi như thế được bao lâu, khi ngước đầu lên, Ma Ðăng Dà chợt thấy từ xa tiến đến một hình dáng quen thuộc. Nàng mở to đôi mắt nhìn kỹ người ấy không ai đâu lạ, chính là vị Tỳ kheo trẻ tuổi mà nàng đã thương nhớ từ lâu. Lòng rạo rực, nỗi vui mừng không thể tưởng tượng, nàng vội vả đứng dậy đón chờ.

Tại sao lại có việc như thế?

Nguyên vào lúc các thầy Tỳ kheo mãn hạ, nhân ngày kỵ phụ vương Ba Tư Nặc sắm những thức ăn quí lạ, mời Phật và chư Tăng thọ trai trong hoàng cung. Ðức Thế Tôn thân lãnh các vị Tỳ kheo thẳng đến cung vua để ứng cúng, nên không theo thường lệ đi từng nhà khất thực. Duy có ông A Nan trước đã chịu người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chung. Vì về trễ, ông đi giữa đường một mình. Nhớ lời Ðức Phật đã quở Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp và Tu Bồ Ðề làm A La Hán tâm không quân bình, ông kính vâng lời dạy vô giá của đấng Ðiều Ngự, ôm bát theo thứ lớp ghé vào từng nhà, kính giữ phép hoá trai.

Khi A Nan đi đến, nàng Ma Ðăng Dà đem thức ăn ra cúng dường đồng thời gọi thầm tên vị Tỳ kheo trẻ tuổi và đọc mấy câu Phạm chú, đoạn nàng xây lưng trở vào nhà.

Tay chân bủn rủn, thần trí không định, A Nan cũng nối gót theo sau. Lúc hai người đã vào đến phòng, như cây héo gặp mùa xuân, Ma Ðăng Dà giở đủ trò khêu gợi quyết tâm làm nổi dậy ngọn sóng tình trong con người tịnh hạnh. Trong giờ phút nguy hiểm ấy; tuy bất lực, song cũng còn tỉnh trí, A Nan tha thiết tưởng nghĩ: "Hỡi Ðức Từ Nghiêm! Nay con bị nạn, Ngài đành bỏ con sao?".

Khi ấy Ðức Như Lai thọ trai xong, đã về đến tịnh xá và đang ngồi thuyết pháp giữa vô số thính chúng. Ðấng Từ Nghiêm trí tuệ thần thông nghe thấy ông A Nan mắc nạn, liền từ nơi nhục kế trên đảnh, phóng ánh sáng trăm thứ báu rất tự tại nhiệm mầu. Trong ánh sáng có vô số hóa Phật, mỗi vị đều ngồi trên toà sen nghìn cánh, đồng thời nói ra thần chú bí mật. Ðức Như Lai khiến Ngài Văn Thù phụng trì chú ấy, đến dẹp trừ tà chú đem ông A Nan về. Ngài Văn Thù vâng lời đến, phóng áng sáng nói lại thần chú bí mật. Bấy giờ ông A Nan tâm trí sáng suốt, như cá đã thoát khỏi lướt, vụt chạy ra ngoài. Chưa được thỏa nguyện, bỗng mất người yêu, Ma Ðăng Dà cũng chạy theo A Nan tâm trạng như người cuồng dại. Khi ba người đã đến Tịnh xá, lòng si ái quá nặng, Ma Ðăng Dà sầu khổ bạch với Phật: "Xin Ngài trả ông A Nan lại cho tôi". Ðức Phật mĩm cười, dùng phương tiện bảo: "A Nan là kẻ xuất gia, nàng là thế tục, hình thức và đời sống của đôi bên đều khác, thế thì làm sao gần gũi nhau được? Nếu nàng chịu cạo tóc, mặc áo cà sa, ta sẽ giao A Nan lại cho". Trước tiên, Ma Ðăng Dà còn dùng dằng, nhưng bị ái tình làm mù quáng, đã thương trót phải liều, nàng nghĩ thầm: "Nếu Phật không giữ lời hứa, ta sẽ nắm áo Ngài và ông A Nan".

Nghĩ như thế nàng liền ưng thuận, sau khi đã thành hình thức xuất gia, Ma Ðăng Dà lập lại yêu cầu khi trước, Ðức Phật không đáp hỏi lại:

- Nàng thương A Nan vì chỗ nào?

- Tôi thương đôi mắt xinh đẹp của ông.

- Mắt của A Nan chỉ là hai khối thịt hôi, trong ấy chứa những nước mắt, ghèn dơ, có chỗ nào tinh sạch đặng cho nàng mến?

- Tôi thương cái mũi ông A Nan.

- Mũi của ông ấy có những chất nhớp bên trong và thường chảy ra thứ nước không sạch, nàng chẳng nên ưa thích.

- Tôi thương cái miệng ông A Nan.

- Miệng của A Nan có những nước miếng, đờm, dãi, nếu ông ấy không năng súc rửa, nơi đó sẽ đóng cáu bợn và tiết ra mùi hôi. Thế thì không đáng cho nàng yêu chuộng.

Sau khi đánh tan những chỗ ái chấp của Ma Ðăng Dà, Ðức Phật lại vì nàng giải thích, chỉ rõ thân người không sạch, mong manh chóng suy tàn, là nguyên nhân của sự đau buồn trong hiện tại và vô lượng nỗi khổ về sau.

Nghe lời chánh chơn hợp lý của Ðức Phật, như người trong bóng tối chợt bắt gặp ánh sáng, Ma Ðăng Dà đứng lặng suy nghĩ. Trước kia nàng lầm tưởng ái tình là vườn hoa tươi đẹp, đầy màu sắc rực rỡ, hương vị thơm tho, nơi ấy hẳn hứa hẹn cho thế gian một diễm phúc tuyệt trần. Nhưng hôm nay nhìn sâu vào thực tế, nàng mới biết nó là một mũi gai độc ẩn núp dưới lớp lá xanh; một sợi dây vô hình lôi kéo người vào ngục tối đau khổ, Tỉnh Giấc Mơ Hoa, nàng quan sát những lý: bất tịnh, khổ không, vô thường, vô ngã của Ðức Phật vừa khai thị, liền chứng được quả A Na Hàm. Vừa mừng rỡ vừa tủi thẹn, nàng cúi xuống đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin trọn đời làm đệ tử và phát nguyện sẽ dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi vòng hoa mộng, vào bản thể an vui trong sạch...


Hết
500




Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:


- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?


Ông lang quả quyết đáp:


- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.


Ông lão cau mặt nói:


- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết?


Ông lang xua tay nói:


- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?

854


Powered by Blogger.