Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.

Rút khăn xong, anh thả rơi đầu xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la : “ Ui cha ! “

Ở mấy chiếc giường hai bên, ngườI ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế giường rắn mắc ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên . Tên ăn cắp là Ngư . Ngư hô :

- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay ngang mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để hứng lấy rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh , y như người ta chơi bóng rỗ.

Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác , Thái rượt theo mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền lạI kê đầu mà nằm.

Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn là ngườI lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.

Đó là những thầy giáo ở tỉnh , nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại trường Gia Long.

Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một trường trung học nào đó ở miền Nam.

Cuộc sống chung trong mùa tu nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không khí mười mấy năm về trước với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối , với trống điểm giờ ăn, giờ tắm, giờ nằm, vớI bóng đèn chong màu xanh xanh tỏa ánh sáng trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà trong đó các cậu thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.

Ôi, cái đời lưu trú năm xưa, xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !

Ôi, những cái đầu, tóc còn dưỡng rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm mùi thuốc rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức thư xanh, những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín trong lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.

Ôi ,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên gặm mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa , nay đã đâu rồi !

Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn thắt đau, nghẹn ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những dãy nhà của trường Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường Mỹ Tho mà trong đó đã nghỉ yên quá khứ của họ.

Làm sao không ngậm ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ, họ đã hoài thai nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên

Nhưng rồi sự học tập và cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp tình cảm lại.

Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mườI mấy năm, ham nô đùa vớI nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước

Các thầy giáo hôm nay cũng rắn mắc y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến

Khi chiếc gối bay đến giường cuốI dãy thì anh Trung chụp rồI dộng vào cửa buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn vớI nhau

- Mấy thằng dịch già này , không cho tao ngủ hở bây ?

Đó là lời mắng rất hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm

- Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy cửa lận : cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách không ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp tế lương thực nè ……

Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng :

- Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !

- Thùng ! anh Trinh đánh trống miệng một cái nghe ngọt xớt

- Thôi phát nầy ngủ thật đa ! Dung nói

- Khoan, để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem . Ráng nghe các cha :

- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ

- Xuất đối đi, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối vậy

- Im !

- Đèn chong sáng quá làm sao ngủ

- Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn bóng xanh như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ ngủ rồi bịnh cả đám. Biết nó làm sao hôn ? Nó chong bằng bóng trắng mà ngoài sơn dầu sơn xanh. Như vậy ánh sáng tốI hù, đứa nào ham học thì bơ.

Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò xiệc ấy, để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn lắm , nó rút bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.

Đang cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà bứơc ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời quyết ra chụp vài cậu phạt cho hả giận

Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt, anh kép ở dướI quăng anh kép đứng giữa, anh kép giữa quăng anh kép trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh Gừng. Anh ta té cái rầm , năm bất tỉnh nhơn sự , con dao đâm lủng tai trái anh ta, máu ra linh láng.

Thầy Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội thốI trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà học , học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình hươi tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.

- Rồi sao nữa ?

- Rồi áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to “ Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi bây ơi ! “

Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng làm chay.

- Rồi anh Gừng có sao không ?

- Sau đó , anh ta hóa thành thi sĩ.

- Lạ không ?

- Anh ta làm thơ như vầy :

Cạo đèn bây học, lại quăng tao,

Nghĩ giận tụI bây , máu muốn trào

Hát xiệc không lương , xương lạI gãy,

Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !

Chưa chết mà bây châm lửa đốt,

Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !

Từ rày nhắn vớI quân ham học,

Vùi đầu vào sách sẽ ho lao



- Toàn vần ao không mà thôi

- Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta đã bị nóc ao mà !

- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !

- TụI bây ơi, mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím hồi đó tao đi ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm. Chúng nó may mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai trôn vo lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần . Thật là tay con gái có khác .

- Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây ơi, trời hỡi nè, đời ngườI sao mà thấm thoát , cô áo tím của tôi đã năm con bảy cháu rồi nè trời !

- Hu…..hu…..!

- Thùng !

- Các anh ơi, sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng phất đâu đây…..

- Giường cũ biết còn hay không ?

- Sao lại không . Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân đội Nhật và Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người xưa. Kìa cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều chiều đã dựa vào đó mà làm th%C
6222




- Anh ngồi trên tàu, trong toa không còn một chỗ trống. Một bà già và một cô gái đến trước mặt anh, anh nhường chỗ cho ai?

- Còn tùy theo... Nếu bà già và cô gái không quen nhau, tôi nhường cho cô gái. Nếu bà già là mẹ cô gái, tôi nhường cho bà già. Còn nếu bà già là mẹ chồng cô ta, có lẽ tôi không nhường cho ai hết!



o O o



Một kẻ thích đùa hỏi người bạn:

- Theo anh thì ở phố này có bao nhiêu kẻ bất lương, không kể anh?

- Không kể tôi! - người kia kêu lên - Bộ anh muốn sỉ nhục tôi đấy à?

- Chà, vậy thì phố này có bao nhiêu kẻ bất lương, kể cả anh?

1036





Chị Chồng


     Từ lâu rồi chị chưa về quê chồng, chỉ vì chốn ấy còn người chị ruột của chồng cay nghiệt, vì những vết hằn cũ chị chưa thể quên. Những ngày đầu rời thị trấn về làm dâu nhà họ Đoàn, chị đã khóc cạn nước mắt.

      Nhà anh ở mom sông, một bên đồng lúa hun hút, đêm đêm đom đóm lập loè, côn trùng ra rả như oan hồn... chị sợ hãi và nhớ nhà quay quắt. Ban ngày chỉ một cơn mưa thôi là đường sá nhão nhoét, đi lại lơ mơ ngã chổng vó. Biết phận làm dâu, trời chưa rõ mặt người chị đã bật dậy quét lá sàn sạt ngoài ven sân, quần xắn tận gối, xách nước giội chuồng heo rào rào. Thế mà người chị chồng bóng gió: "Con dâu báo hiếu mẹ chồng/Nấu canh lưỡi rồng bỏ ớt cho cay".

      Mẹ chồng chị đã mất sớm. Bữa nọ chị ngồi bới cơm cho cả nhà, cha chồng húp canh, ông nhăn mặt, dằn chén xuống mâm quát: "Đứa nào nấu canh?".

      Chị giật mình đánh thót, lí nhí: "Dạ, con ạ!" .

      Ông cụ mặt giận hầm hầm, ném cái nhìn về phía con trai: "Thằng ba, vợ mày đảm quá hở?".

      Chị húp canh mặn đắng đầu lưỡi, tái mặt. Chị nhìn anh, nước mắt trực trào ra. Ai là thủ phạm bỏ muối vào canh để hại chị, chị đã rõ. Buổi chiều. Chị trốn ra bờ sông ngồi khóc một mình. Anh đi tìm, lau nước mắt vỗ về: "Ráng chịu em à! Rồi nay mai chị ấy cũng theo chồng". Chị thương anh, đau đáu chờ cái ngày anh nói, nhưng cứ xa vời vợi.

      Chị chồng là gái lỡ thì, nhưng còn đẹp mặn mòi. Thân hình thon thả, tóc xoã lưng ong, mặt đẹp như ngọc, chỉ phải tội vành môi hơi dày. Một lần trong đêm trăng, tình cờ chị nhìn thấy chị ấy tắm ngoài thềm giếng, chị ngẩn người trước vẻ đẹp thuần khiết của người thôn nữ.

      Chồng chị kể: Ngày trước, chị của anh cũng có một mối nặng tình với người con trai làng bên. Anh lực điền nhờ người đến dạm hỏi cô con gái rượu thầy Bảy - ông cười khanh khách: "Thằng nào muốn lấy con gái của ông thì phải gấm lót đàng, vàng lót ngõ". Anh trai quê bị người ta chê nghèo, quẫn chí bỏ nhà đi biệt.

      Từ ngày có em dâu lo việc nội trợ hàng ngày, chị ấy chuyên chú giúp cha chồng viết vào những mảnh giấy cỏn con ngày giờ cưới xin, cất nhà, vét giếng cho thiên hạ... cha chồng chị suốt ngày giương mục kỉnh, tay thấm nước bọt lật từng trang sách mỏng dính đã ngả sang màu ố vàng, tỉ mẩn đối chiếu ngày giờ, cung mạng... cho thân chủ của ông.

      Khách đến coi ngày nườm nượp, chị chồng lo thu bạc vuốt phẳng phiu từng tờ một cất kỹ vào chiếc hộp gỗ mun đen. Nhà chị được coi sung túc nhất làng nhưng chị không biết nên vui hay nên buồn. Chị chồng bẩn tánh bao nhiêu thì cha chồng khó tánh bấy nhiêu. Ngày nào coi được bao nhiêu người? Bao nhiêu tiền? Cha chồng chị dặn cô con gái nhất nhất ghi chép cẩn thận vào sổ, cuối tháng ông tra xét lại, một phần chi dùng cho gia đình, còn của dư, của để ông giao hẳn cho cô con gái sắm vàng cất giữ. Một hôm không hiểu bà chị tính toán sổ sách vòng vo thế nào bị cha mắng sa sả: "Mi là đồ con gái hư, ăn phí cơm. Tao mà biết mi ngu đần thế này thì hồi bé tao bóp mũi cho rồi" . Trông bà chị chồng quen thói hoạnh hoẹ, chanh chua giờ bị mắng mỏ khóc sướt mướt, chị hả hê trong lòng.

      Năm ấy tự dưng bướm vàng phía núi bay ra thành đàn nối đuôi nhau dài dằng dặc suốt mấy hôm liền. Sáng nào chị cũng đứng bên hàng dâm bụt đỏ hoa xem bướm bay vàng trời, lòng bồi hồi nhớ đến anh... Anh đi học ở xa. Việc nội trợ, việc đồng áng đều một tay chị cáng đáng. Cha và chị chồng thì miệt mài với các nghề hái ra tiền bằng dịch vụ coi ngày. Thế rồi vào một buổi sáng, đàn bướm cuối cùng bay qua, chị bỗng nghe chị chồng khóc ầm ĩ, chạy vội vào nhà, bà chị chồng ôm chầm lấy chị khóc ngất: "Mợ Ba ơi! Cha mất rồi!". Đó là lần đầu tiên chị ấy thể hiện tình cảm chân thật với chị. Chị sụt sùi khóc, gỡ tay chị chồng, bước lại giường giở chiếu, tay đặt lên trán cha chồng - xác ông đã lạnh ngắt. Có lẽ ông trút hơi thở vào lúc nửa đêm. Chị biết từ lâu, tuy không nói ra nhưng cha chồng cũng thương chị tần tảo, chịu đựng. Tánh ông nghiêm khắc ngay cả với con cháu. Nho giáo thấm sâu vào máu thịt ông và con gái. Kể ra hiếm có người đàn ông nào vợ mất sớm chịu cảnh gà trống nuôi con đến cuối đời như cha chồng chị. Nhìn ông nằm đó, nghĩ đến đời người, chị thấy xót xa.

      Anh về, bệu bạo khóc, nhờ bà con hàng xóm quật heo tạ cúng cha và cảm ơn dân làng. Dẫu sao cũng tiếng thầy Bẩy... không có mâm cơm mời dân làng trước lúc an táng, họ cười cho...

      Anh nói trần trụi như thế với bà chị, may sao bà chị nổi tiếng bủn xỉn cũng biết bảo: "Tuỳ cậu, muốn tính sao thì tính để trả hiếu cho cha".

      Bà vừa nói vừa khóc, tiếng khóc ai oán, lấn át tiếng nhạc bát âm nức nở tang tóc.

      Mãn tang cha chồng, vợ chồng chị mua nhà ở thị trấn xin ra riêng. Chị chồng ngờ chị xúi bẩy, mắng chị như tát nước vào mặt: "Tao nói cho mà biết, mi là con em dâu bạc nghĩa, bạc tình. Mi xúi giục chồng bỏ quê cha đất tổ. Thằng Tánh nó u mê mới nghe lời mi. Nó không hiểu thà sống chuồng heo còn hơn theo quê vợ" . Bà ta còn dằn mạnh từng lời: "Ba con chưa gọi là chồng, mi hãy nhớ lấy". Chị câm lặng, uất nghẹn xách gói ra khỏi nhà. Chị thề sẽ không bao giờ trở lại quê chồng.

      Ngày chị Hai mất, các con bận đi học xa, vợ chồng chị hối hả đón xe về quê. Dọc đường mỗi người đeo đuổi một ý niệm riêng. Chắc anh đau lòng lắm? Nhìn gương mặt rầu rầu của anh, chị đủ hiểu. Nhà có hai chị em giờ chỉ còn mình anh. Bao năm rồi, mỗi lần đến giỗ chạp, chị mua các thứ cho cha con anh mang về quê. Sự hờn giận đối với chị chồng cũng đã nguôi ngoai, song chị lại có mặc cảm, ngại tiếp xúc với bà con hàng xóm, nên do dự chưa về. Mỗi lần cha con chị dắt díu nhau mang bá
nh trái ra bến xe, anh đều nói duy nhất một câu: "Em giận chị Hai dai quá!". Chị tránh cái nhìn buồn bã của anh: "Khi nào chị Hai qua đời, em sẽ về chịu tang". Nói thì nói vậy, nhưng thâm tâm chị dự định một ngày gần nhất chị sẽ về nối lại tình cảm chị em. Vậy mà không kịp...". Chị Hai ơi! Vong linh chị hãy tha thứ cho đứa em cố chấp, bạc bẽo này". Anh ngồi bên cạnh đâu hiểu cơn bão lòng đang dâng lên từng đợt cồn cào trong chị. Anh ôm bờ vai chị, mấy ngón tay cứ xoa xoa, thì thầm: "Chắc em hết giận... nghĩa tử là nghĩa tận em à!". Chị oà khóc... Mọi người trên xe tò mò nhìn sang. Mặc, chị khóc như chưa bao giờ được khóc.

      Về đến đầu làng, chị ngẩn ngơ như người mất hồn. Ôi! Bướm vàng! Đàn bướm dài vô tận bay lao xao trong nắng. Và nữa, hoa dâm bụt bên đường nhà ai nở rộ một màu đỏ nhức mắt. Khi vợ chồng chị bước vào sân, mọi người im bặt. Có ai đó kêu lên: "Trời ơi! Mợ Ba về đấy ư?". Chị ào vào nhà, thả cái sắc xuống, lật chiếu nhìn mặt, ôm lấy xác chị chồng oà khóc: "Chị Hai ơi!". Chừng ấy năm xa cách, không ngờ chị chồng chị tiều tụy quá! Tóc ngả màu muối tiêu, nét mặt khắc khổ, ốm yếu. Ngày xưa, trước biến cố đau thương, chị chồng ôm chị với vòng tay ấm áp. Giờ chị ôm chị chồng thân xác lạnh băng, anh thì ngồi ôm đầu, nước mắt ràn rụa. Ngay khi ấy, cụ già ở cạnh nhà bê chiếc hộp dán giấy trắng kín bưng, từ từ tiến lại: "Vợ chồng thằng Ba ơi! Trước khi qua đời, chị Hai bây nhờ già chuyển lại cho con Ba cái này!". Bàn tay chị run run gỡ từng mẩu giấy, nước mắt rơi lã chã. Nắp hộp bật ra, trong đó có một tờ giấy gấp tư và một túi vải. Chị không thể nhầm, đó là nét chữ của người chị đã quá cố, có những dòng đã ướt nhoè nước mắt: "Thành ơi! Mợ Ba ơi! Khi em đọc những dòng chữ này thì chị đã về cõi vĩnh hằng. Chị biết em còn oán giận chị. Chị đã đối xử không công bằng với em trong những năm tháng em về làm dâu... Chị ngàn lần mong em tha thứ cho chị. Lớp người của chị quen sống trong khuôn mẫu gia giáo... nỗi bất hạnh của chị... khiến cho chị bảo thủ, khắt khe... Thành ơi! Những năm tháng cuối đời chị mới thấm thía hết nỗi cô đơn của đời người. Bấy lâu chị giữ số vàng của cha, chị xin chia làm ba phần: Hai phần cho hai cháu khi lập gia đình. Phần còn lại chị gởi cho vợ chồng em thay chị cúng giỗ cha, hương khói ông bà. Chị nguyện cầu cho hai em sống hạnh phúc bên nhau suốt đời...".

      Chị lại vạch chiếu ôm lấy xác người chị chồng khóc thảm thiết. Người ta xúm lại gỡ tay chị ra, dìu đi nơi khác vì đã đến giờ thành phục. Bên tai chị vang lên tiếng nhạc bát âm réo rắt và mùi hương trầm ngào ngạt.



Tác Giả:Trần Quốc Cường

65





"Công đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật, mà căn cứ nơi sự thành tâm".

Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật và bàn một vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ hôm ấy:

Câu chuyện mở đầu trong bữa tiệc là những lời sau đây do vua A Xà Thế phát khởi.

- Các khanh! Quả nhân rất bằng lòng và thỏa mãn về việc các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất trong buổi lễ cúng dường Phật và giáo hội vừa rồi.

Hướng đôi mắt về phía đại thần Kỳ Bà, Vua A Xà Thế nói tiếp:

Kỳ Bà! Khanh nghĩ hộ quả nhân xem còn có việc gì đáng làm nữa để quả nhân tận hiến tấc dạ chí thành lên đức Chí Tôn và giáo hội - những người tận tụy trong công việc giáo hóa chúng sanh nói chung, thần dân của quả nhân nói riêng, trở về với ánh sáng chân lý.

Ðứng dậy ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi đại thần Kỳ Bà thong thả tiếp:

- Tâu đại vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Ðại vương đã dâng lên đức Chí Tôn và giáo hội, theo thiển ý của hạ thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vì ánh sáng trượng trưng cho trí tuệ, cho sự giác ngộ; ở đâu có ánh sáng thì ở đó bóng tối tan mất. Cũng như ánh sáng Phật và giáo hội đến đâu thì ở đó si ám và tội lỗi đều tiêu sạch. Ngu ý của hạ thần chỉ có bấy nhiêu, kính mong bệ hạ thẩm xét.

- Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý! Tiện đây nhờ khanh thay quả nhân sắm sửa cho thật nhiều đèn đuốc để tối hôm nay dâng lên Phật và giáo hội tại tịnh xá Kỳ Hoàn.

Ðại thần Kỳ Bà vâng thuận. Buổi tiệc bắt đầu và tiếp diễn trong tình thân mật giữa nhà vua và các vị cận thần.

Chiều hôm ấy, trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành khất gặp rất nhiều xe cộ, lính tráng, tấp nập khuân chở những thùng dầu, đèn và cả những  chiếc lồng đèn ngũ sắc rực rỡ.

Hỏi thăm, bà lão hành khất biết đó là lễ vật của nhà vua đem cúng dường Phật và giáo hội.

Hình tướng trang nghiêm của Phật và các thầy Tỳ kheo lại hiện về trong óc bà. Bà vui hẳn lên và rất tán thành việc làm có ý nghĩa của nhà vua. Và xét lại tự thân, thấy mình chưa làm được một công đức nào đối với Phật và giáo hội, bà tự nghĩ phải sắm phẩm vật để cúng dường mới được. Thò tay vào bị, bà lão moi ra vỏn vẹn chỉ có hai tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong lòng khiến bà hoan hỷ đi ngay vào một cái quán gần đấy...

- Thưa cậu! Làm ơn bán cho tôi hai tiền dầu thắp.

- Bà mà mua dầu làm gì? Sao không mua đồ ăn lại mua dầu, nhà cửa đâu mà dầu với đèn!

- Thưa cậu! Tôi thường nghe các bậc hiền đức trong làng bảo: "Ngàn năm muôn thuở mới có một đức Phật ra đời; người nào có nhiều phước duyên lắm mới được gặp". Hôm nay tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng hiến lên Ngài. Ðiều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Nhân tiện vua A Xà Thế sửa soạn đèn đuốc để dâng lên Ngài và giáo hội, tuy nghèo khổ, tôi cũng xin nguyện đem hai tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài.

Nghe bà lão hành khuất tỏ tấm lòng chân thiệt đối với Ðấng Giác ngộ, người chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: Hai tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng bà ba muỗng nữa là năm, và cho bà mượn luôn vịt đèn này. Mong bà nhân cho.

Sau khi cám ơn người chủ quán, bà lão ra về với bao niềm hoan hỷ vì được người khác biểu đồng tình và giúp mình trong công việc phước thiện.

Trời chưa tối hẳn, những cây đèn xinh xắn, lộng lẫy của nhà vua đã được những đội thị vệ thắp sáng. Tịnh xá Kỳ Hoàn như vui nhộn hẳn lên. Ðó đây vang lừng những điệu nhạc dịu dàng, nhịp nhàng với lới ca ngợi của những cận thần thay nhà vua tán thán công đức của Phật và giáo hội. Từng đoàn người lũ lượt đi dự lễ, đông như trẩy hội. Bà lão hành khất cũng tiến mau về phía Tịnh xá và dừng bước trước những hoa đăng rực rỡ, bà vội vàng đến rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay tim. Vừa mồi ánh sáng bà vừa phát nguyện: "Cúng dường ánh sáng này lên Ðức Thế Tôn và giáo hội, con chỉ cầu mong làm sao con cũng sẽ được trí tuệ sáng suốt như các Ðấng Giác ngộ trong mười phương". Bà lại nghĩ: "Dầu ít như vầy có sáng cũng chỉ đến nữa đêm là cùng". Nhưng mạnh dạn bà thầm nguyện: "Nếu quả thật sau này tôi sẽ được giác ngộ như lòng tôi mong muốn hôm nay, thì số dầu ít ỏi này cũng làm cho cây đèn này sáng mãi không tắt".

Sau khi treo cây đèn trên một cành cây, bà lão hành khất đi thẳng vào tịnh xá, chí thành lễ Phật rồi ra về...

Số đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim, nhưng ít cây được sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật cháy...

Duy cây đèn của bà lão hành khất thì ánh sáng nổi bậc hơn muôn vạn cây đèn khác và cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn không hao.

"Này đệ tử! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ", Ðức Phật dạy với Ngài Mục Kiền Liên như thế.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật. Nhưng đến cây đèn của Bà lão hành khất, thì ba lần Tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, Tôn giả cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần thông diệu lực của mình quạt hắt vào đèn nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung quanh đều ngạc nhiên và cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.

Ngay lúc ấy, Ðức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:

"Thôi! Ðệ tử hãy thôi. Dù cho đệ tử có tận dụng tất cả thần lực của đệ tử cũng không thể nào làm tắt được cây đèn này; vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong tương lai".

Lời dạy ấy của Ðức Phật đã làm cho nhiều đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khất!

Câu chuyện này đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi:

- Kỳ Bà! Như khanh đã biết quả nhân làm rất nhiều công đức và cúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy Ðức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khất chỉ cúng dường có một cây đèn lại được Ngài thọ ký là nghĩa làm sao?

Ðại thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.

- Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm hiểu những nguyên khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ kh484




Một sinh viên Tàu ở với một sinh viên Nga trong ký túc xá sinh viên. Sinh viên Nga ngày nào cũng dẫn bạn gái về chơi bời, bật nhạc to cả ngày đêm khiến anh sinh viên Tàu cực kỳ khó chịu, nhưng anh ta vẫn nhẫn nhục chịu đựng không nói năng gì.

Một hôm anh sinh viên Nga chợt tỉnh ngộ, lấy làm ân hận lắm ra tâm sự với anh sinh viên Tàu :

- Trong thời gian qua tớ làm phiền cậu quá thôi tớ hứa từ nay không dẫn bạn gái về nữa, không bật nhạc to để cậu yên tâm học hành.

Anh sinh viên Tàu cảm động lắm nói :

- Cậu đã biết nghĩ như thế tớ cảm ơn cậu nhiều lắm, thôi thì tớ cũng hứa với cậu từ nay tớ không đái vào nồi súp của cậu nữa.

1177




Thầy hỏi một trò lười:

- Em hãy nói nước sôi ở bao nhiêu độ?

- Thưa thầy ở 90 độ ạ.

Một trò khác ở cuối lớp đứng lên.

-Thưa thầy bạn ấy trả lời sai rồi ạ. Góc vuông mới sôi ở 90 độ chứ.



o O o


Một nhà buôn truy bài cậu con trai nhỏ:

- Hai nhân hai là bằng mấy?

- Tám.

- Dốt! Bằng bốn.

- Con biết rồi, nhưng nói thế là để cho bố còn mặc cả.
1134




Thầy cũng chịu


Trong giờ toán:

Thầy: Em hãy cho thầy biết các thí dụ về đơn thức, nhị thức và đa thức.

Trò: Thưa thầy, tối qua nhà em ai cũng thức xem đá banh, đó là đa thức. Khi sắp hết hiệp một thì chỉ còn lại em và ba em xem, đó là nhị thức. Đến cuối trận chỉ còn mình em xem, đó là đơn thức.



o O o


Trong giờ sinh vật, thầy gọi:

- An, hãy cho thầy biết con người có bao nhiêu cái xương sườn?

- Thưa thầy, em không thể đếm hết được.

- Sao vậy?

- Tại đụng vào là em nhột.
31




Hàn Bán Thiên là một anh chàng nho, cựu học không thành danh, tân học cũng lỡ bước; lại có tính hay mơ tưởng những sự cao xa, không còn nghĩ đến tư cách, địa vị, thời thế mình là thế nào nữa. Có khi anh ta tưởng mình sẽ nên một nhà đại triết học, sẽ đem những học thuyết Âu Tây mà phá cho hết cái cựu học, cái mê tín của người mình. Có khi anh ta tưởng mình sẽ nên một nhà đại văn hào, sẽ đem luận thuyết, diễn thuyết, kịch bản, thi ca mà cổ xúy quốc dân cho mau mau lên đường tiến bộ. Có khi anh ta tưởng

mình sẽ nên một nhà đại kinh tế, sẽ lấy khoa học Âu Mỹ mà cải lương kỹ nghệ, mở rộng lợi quyền cho nước mình sẽ nên một xứ giàu thịnh. Có khi anh ta lại tưởng mình sẽ nên một nhà đại chính trị, khi chính quyền đã về đến tay mình sẽ dùng những phép nội trị ngoại giao của các nước văn minh bên Âu Mỹ, duy tân nước nhà mình lại. Mỗi khi mơ tưởng đến đấy thì anh ta đắc ý biết là dường nào. Bấy giờ trông người nào, vật nào cũng có cái cảnh tượng cổ võ âu ca, hi hi, hiệu hiệu
(#1).


Người vợ anh ta ở nhà quê làm ruộng đã phải mấy năm mất mùa; ra ở tỉnh buôn bán cũng bị thất bại. Nghề nghiệp gì cũng không có, tình cảnh tiêu điều mà anh ta cứ ngông ngông nghênh nghênh, cả năm không biết nghĩ gì đến cả. Một hôm người vợ bảo anh chồng:


- Người ta khổ một điều là không biết mình. Anh không xem việc sinh nhai của mình ngày nay gian nan biết nhường nào, cái mệnh vận tương lai của nhà mình chưa biết ngày mai có được như ngày nay không. Thế mà anh cứ mơ mơ màng màng, tơ tưởng những cảnh thiên đường cực lạc, có khi nước sâu lửa nóng ở đâu sau lưng mà không biết. Thôi này, nhà đã ba tháng nay chưa có tiền thuê, chủ nhà cho đòi đã nhiều lần, tháng này người ta sẽ đem đồ mình ra đường. Bấy giờ tôi xem anh đứng vào đâu mà nói chuyện văn minh nữa?


Hàn Bán Thiên cứ thủng thỉnh mà nói:


- Hôm nay đã là ngày mấy tháng mấy? Thấm thoắt mà đến ngày mở sổ Hồng thập tự đây. May ra ta trúng số thứ nhất sẽ có bốn vạn đồng bạc, chớ việc gì mà sợ. ấy mới sướng! Bấy giờ ta sẽ làm một nhà đại phú hào vậy.


Người vợ không nói gì nữa, cứ ngồi ghé một bên cái bàn, dưới bóng đèn mà vá cái áo rách. Hàn Bán Thiên cũng tựa án thiu thiu, ngủ đi lúc nào không biết.


Chợt nghe ngoài cửa có tiếng người lát sát (#2):


- Mừng ông đã phát tài. Ông đã trúng Hồng thập tự số thứ nhất. Chúng tôi báo tin cho ông.


Anh ta còn đương bỡ ngỡ, chưa biết thực hư, liền thấy mấy người nhà ngân hàng xe bạc đến, xếp vào đầy nhà, trồng trắng xoá đều là thứ bạc mới đúc. Người nhà ngân hàng giao cho anh ta nhận đủ bốn vạn đồng bạc, rồi cất mũ lui ra. Anh ta theo ra mà đóng cửa. Bấy giờ đêm đã khuya, không nghe gà kêu chó cắn, anh sợ hàng xóm có người dòm hành (#3), liền gài hết các chốt cửa lại và lấy ván mà chặn. Mình cứ đi đi lại lại chung quanh đống bạc. Mừng rỡ dị thường, chân nhảy tay múa như người phát điên phát dại.


Anh ta lại nghĩ: nay mình đã có một cái tài sản to tát như thế này, cũng phải tiêu dụng như thế nào cho hợp với phương pháp văn minh của những nhà lý tài bên Âu Mỹ. Nghĩ rồi liền lấy giấy bút mà làm một cái "dự toán biểu", liền phục xuống bàn mà viết:


Bốn vạn đồng bạc chia làm ba lô: lô thứ nhất một vạn để làm của công ích; lô thứ hai hai vạn để làm của cơ nghiệp; lô thứ ba một vạn để làm của dưỡng lão. Trong ba lô ấy có chín khoản như sau:


1 - Cúng vào các hội thiện 3.000$


Công ích 2 - Lập trường nghĩa thục 4.000$


3 - Mua phiếu quốc trái 3.000$


4 - Tậu ruộng vườn ao 5.000$


Cơ nghiệp 5 - Làm nhà ở 5.000$


6 - Vào hội thương 10.000$


7 - Lập trại biệt thự 3.000$


Dưỡng lão 8 - Sắm đồ trang sức 3.000$


9 - Mua hầu non 4.000$


Cộng 40.000$


Anh ta vừa viết đến khoản thứ chín, người vợ đứng ngay lên, trừng con mắt mà trông anh tạ Anh ta vội vàng cầm lấy tay vợ vừa cười vừa nói:


- Mình ơi, mình chớ có nghi ta, chớ nên ghen gổ (#4), dù ta có lấy năm hầu bảy thiếp, thì cái ái tình ta với mình cũng không có giảm đi chút nào. Chẳng qua cũng để là đồ "xa xỉ phẩm". Vì ta vẫn chủ trương cái nghĩa nhất phu nhất phụ; Việc gì mà mình lo.


Người vợ giận lắm nói rằng:


- Có khi anh này hóa điên hay là mê ngủ. Hai vợ chồng bơi chải cả ngày còn lo chưa đủ được một ngày hai bữa, lại còn có con nhà vô phúc nào, bạc mệnh nào còn vào đây ngồi khóc với mình nữa hay sao? Thôi! Hãy đưa cái áo ngoài của anh đây cho tôi, để đi gửi lấy mấy đấu gạo mà thổi bữa cơm sáng.


Anh ta nghe người vợ nói sực tỉnh, thấy mình vẫn ngồi tựa vào cái bàn. Đống bạc trắng xóa lúc này đã đi đâu mất cả. à, chuyện chiêm bao.


Hàn Bán Thiên tỉnh dậy rồi, người vợ cười mà nói:


- Cái chiêm bao tốt lành của anh cũng có giá trị đấy, có thể dùng làm tư liệu một bài "đoản thiên", sao chẳng chép mà bán cho mấy nhà biên tập sở tạp chí, kiếm năm ba đồng bạc mà tiêu xài?


Anh chồng cũng nhếch mép mà cười, gật đầu nói rằng: "Phải".

2908




- Đây có phải rìu của con không?
- Thưa Bụt, không phải rìu của con. Bụt lại lặn xuống nước mò lên một cái rìu bạc, chàng tiều phu vẫn không nhận. Lần thứ ba, Bụt mò lên cả ba chiếc rìu vàng, bạc và sắt, anh chỉ nhận chiếc rìu sắt là của mình. Thấy anh nghèo túng mà thật thà chất phác, Bụt liền cho anh cả ba chiếc rìu... ... Vài năm sau, tiều phu nọ đi dạo cùng vợ trên bờ sông xưa, không may cô vợ trượt chân ngã xuống nước. Anh chàng thở phào nhìn xoáy nước, định bỏ về thì Bụt lại hiện ra bảo:
- Ta sẽ mò vợ lên cho con, đừng buồn! Anh tiều phu chưa kịp mở miệng thì Bụt đã hiện lên trên mặt nước cùng Cindy Crawford và hỏi:
- Đây có phải vợ con không? Tiều phu loạng choạng suýt ngã, tim đập thình thịch, vội vàng lí nhí:
- Dạ phải...
- Nói dối! Ta sẽ trừng phạt ngươi! Trước cơn thịnh nộ hiếm thấy của Bụt, chàng đốn củi tội nghiệp quỳ xuống nghẹn ngào:
- Mong Bụt hiểu cho, nếu con nói "không" thì Người lại mang lên Claudia Schifer và tiếp tục "không" thì người sẽ vớt đến vợ con, khi ấy con mà bảo "đúng" thì Bụt lại cho con cả ba nàng. Thế thì con chết mất! Không thể nào kham nổi! Hu hu!
1764


Powered by Blogger.